Thơ Nguyễn Duy Hùng:
Nguyễn Duy Hùng
22-ngõ 3-khu Cầu Đơ 3-phường Hà Cầu
Hà Đông-Hà Nội
Đt: 0433512457 - 01644505669
email:
acodo@yahoo.com.vn TRƯỜNG CA BẠCH ĐẰNG GIANG
Buổi hồng hoang mênh mang trong vũ trụ
Kết tinh hoa riêng vạn cõi đất trời
Cột đồng Hán đã tan thành khói bụi
Sóng Đằng Giang mấy thuở đỏ huyết trôi
Tung sóng bạc đầu
Hòa thành biển cả
Một dòng muôn thủa xanh trong.
Khúc dạt dào tiếng núi tiếng sông
Khúc êm dịu hòa tiếng lòng của mẹ
Mẹ Âu Cơ hát lời ru tươi trẻ
Ru hoang nguyên giữa đất giữa trời
Thành anh hùng, liệt nữ nơi nơi
Thành làng bản đông vui xuôi ngược.
Sóng cuộn thời gian lớn theo triều Vua Hùng dựng Nước
Mở núi khơi sông
Hòa âm vang trong tiếng trống đồng
Trống Mê Linh viết hồng trang sử (1)
Trống Núi Nưa kinh hồn giặc giữ (2)
(1)Năm 40 hai Bà Trưng nổi trống Mê Linh (huyện Mê Linh là vùng đất Bavì
tới Tam Đảo, nay thuộc Hà Nội) làm lễ xuất binh.Với sức mạnh triều dâng
nhấn chìm Cỏ dại , nên chỉ một trận đánh, quân đô hộ Đông Hán đã tan
tành giáp mã. Hai Bà lên làm vua, nối lại ngôi xưa, nghiệp Tổ .
Chí lớn khí trùm Ngưu Đẩu
Tài cao gươm gánh non sông
Sức hùng vai xoay trời đất
Khí tiết thắp vầng sáng trong
Giở trang chiến sử nhân loại ta thấy được hai Bà là nữ anh hùng đất trời có một,
Không hai.
(2) Năm 248 Bà Triệu mới 19 tuổi đã :
Chí lớn đạp cơn sóng dữ
Sức mạnh chém cá tràng kình.
Bà khởi binh trên núi Nưa, ( thuộc Thanh Hoá ngày nay ) đánh giặc Đông Ngô
Thắng nhiều trận lớn. Tên tướng Lục Dận nhà Đông Ngô phải kêu lên:
Đương đầu mãnh hổ dị !
Đối giáo Triệu Nương nan !
(đánh hổ dữ thì dễ,chiến trận với Bà Tiệu thì vô cùng gian nan nguy hiểm)
Bà Trưng, Bà Triệu là nhi nữ, nhưng lớn lên bằng khí phách trượng phu. Các Bà
ở tuổi mười tám đôi mươi đã trở thành Anh hùng dân tộc, viết hồng trang sử buổi
đầu đánh giặc ngoại xâm cứu nước.
Trống vui hè hội, được mùa.
Sóng cuồn cuộn ngàn thu
Sóng mênh mông thế kỷ
Núi cao soi hùng vĩ
Vũ trụ nhuộm mầu tranh
Non nước gấm sách trời định phận.
Lũ bạo ngược tràn sang gây hấn (3)
. Lửa gươm đốt cháy thanh bình
Người dân lành hai nước điêu linh
Dòng sông quê quặn mình chát mặn;
Và nơi đây sẽ là chiến trận
Xâm lăng giữ nước mất còn.
Cờ ngược dòng đen mộng vàng son
Lưỡi thép tuốt lóe cười ghê lạnh
Giáp mã lập lòe kiêu hãnh
Mặt hằm sát khí ngênh ngang.
Đây Vạn Xuân ! (4)
Đây hùng khí trời Nam!
Vẫn êm ả bức tranh sơn thủy.
Hai bờ bỗng:
Voi gầm...
ngựa hý!
Rừng ngàn năm hú trận cuồng phong
Tựa lưng trời thuyền rơi kín lòng sông
Như núi sập tung triều vỗ mặt
Tiếng quân thét núi vọng vang chuyển đất
Tiếng trống reo sóng đảo ngược thế trời.
Mộng ngai vàng ngự trị nơi nơi
Thành ác mộng quay đầu tháo chạy.
Rừng cọc nhọn hiên ngang bật dậy (5)
Thành hùng binh rẽ nước mênh mông
Tung sức thần Phù Đổng giáp công
Đập lũ giặc tan tành xác pháo.
Một trận thần công người Nam sáng tạo
Đất trời có một không hai.
Xác chiến thuyền cuồn cuộn nước trôi
Trời Hồng Lạc thanh bình trở lại.
Vách Đá Bạc âm vang (6)
Sóng Tràng Kênh trập trùng vỗ mãi (7)
Hào hùng khúc khải hòa ca.
Bến Rừng xưa! (8)
(3) Năm 938 vua Nam Hán sai con là Lưu Hoằng Tháo chỉ huy chiến thuyền ngược
sông Bạch Đằng xâm chiếm nước ta.
(4) Mùa xuân năm 544 vua Lý Nam Đê đặt tên nước ta là Vạn Xuân . Năm 1054
vua Lý Thánh Tông đổi tên là Đại Việt
(5) Bãi cọc nhọn chôn ngầm dưới lòng sông trở thành hùng binh đánh tan giặc dữ
dễ như trở bàn tay:
- Chiến thuật sáng tạo độc đáo có một không hai trong lịch sử chiến tranh cổ.
(6-7-8)Tên các địa danh tạo thế kỳ bí,hiểm trở của sông Bạch Đằng.
. Giáo múa tỏa sương mờ.
Rạch nát không gian
Chớp kiếm đao lòe sáng
Cờ vẫy quân reo thành bức tranh hoành tráng!
Động sôi nhắc lại thời gian
Để xâm lăng nhớ mãi kinh hoàng
Để chấm dứt ngàn năm Bắc thuộc
Để xưng Vương định Quốc
Non sông một giải vẹn toàn.
Đào sáng bừng sắc thắm đón xuân sang
Bánh Lang Liêu tưng bừng vui năm mới (9)
Trống giục âm vang hè hội
Cờ bay thành quách huy hoàng.
Bạch Đằng Giang !
Bạch Đằng Giang !
Xưa mồ chôn mộng vương
Nay mưu bá lại châm ngòi lửa khói.
Ngựa Đại Hãn không sức nào cản nổi (10)
Lưỡi kiếm cong nhào xới đất Nga Hoàng (11)
Ngọn giáo dài xẻ dọc nước Hòang Giang (12)
Mũi tên cứng bắn xuyên Thành Vạn Lý (13)
Gót chinh phục ngập tràn thế kỉ
Roi bạo tàn thống trị rộng mênh mang.
Ở nơi đâu không chịu trói mình hàng
Thì đất nước thành nấm mồ thảm bại.
Tiếng vó ngựa-nỗi kinh hoàng thế giới!
Vút tên bay-nhân loại sợ nép mình!
Trời cũng hờn-mưa xối lệ đao binh
Đất càng oán-lửa thiêu thành âm ỉ.
Roi du mục lại thúc tràn ngựa hí
. Sải ngông cuồng thiêu trụi cỏ trời Nam.
Những hung thuyền định nhấn đảo Phù Tang (14)
Quay trở lại chèo sôi sông Đại Việt.
Á- Âu còn rên siết!
Dân Việt tỏ anh hùng!
Lần thứ ba vung kiếm diệt Nguyên Mông
Ngập đồng nội vó ngựa kiêu phơi xác.
Thuyền run rẩy ...
(9) Lang Liêu là con vua Hùng đã làm ra bánh dầy tượng trưng trời
Tròn, bánh chưng tượng trưng cho đất vuông.
(10) Sách còn gọi Nguyên Mông là Đại Hãn.
(11) Loại kiếm lưỡi rất cong giống kiếm người Ả Rập
(12-13) Sông Hoàng Hà và Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc
(14) Nhật Bản còn có tên gọi là Phù Tang
Khua chèo tìm lối thoát!
Chở kinh hoàng nặng trĩu mặt sông.
Bạch Đằng Giang mang sức mạnh muôn lòng
Lại gầm thét-sóng ngạc kình vùng vẫy.(15)
Pháo định mệnh bốn bề vang dậy
Cồng chiêng khua não lòng người
Tên bay vù xé giặc tả tơi
Mũi lao phóng cuốn thây giặc đổ
Thuyền Đại Việt ào ào xé gió
Hiên ngang đánh áp mặt thù.
Đất thảm trời u!
Thần sầu quỷ khiếp!
Rừng cọc nhọn lại xuất thần oanh liệt (16)
Tung hoành lập lại trận cha ông;
Lửa xuôi triều cưỡi sóng đánh hỏa công
Thuyền tháo chạy xô nhau vỡ nát ;
Muôn quân Việt ầm vang hô: “ Sát Thát “ (17)
Nước sông xanh bỗng chốc đỏ hồng.
Bạch Đằng Giang!
Lửa chiến trận mênh mông
Gió rền rĩ, cỏ cây rên siết.
Thuyền lướt trống khua thành chiến công oanh liệt!
Tướng ngã quân trôi thành lịch sử oai hùng!
Ngựa Thảo nguyên
Dựng Đế chế Nguyên Mông;
Trăm mãnh tướng
Chém tung hoành vạn dặm,
Tràn Đại Việt định thiêu tàn sự sống
Triệu tướng binh
Hóa triệu nấm mồ tanh! (18)
Con cháu Trưng Vương lại chiến thắng liệt oanh
Cát Đằng Giang
Lại vùi muôn giáo gãy.
(15) Ngạc là cá sấu,kình là cá voi
(16 )Trần Hưng Đạo chôn cọc ngầm dưới lòng sông lập lại cách đánh của
Ngô Vương Quyền xưa, tiêu diệt toàn bộ quân giặc một tên không thoát.
(17) Sát Thát nghĩa là giết quân Nguyên
(18) Sau ba lần đại bại ở Việt Nam,đội quân bách thắng nhà Nguyên không
còn sức giữ những vùng đất đã xâm chiếm trải rộng mênh mông từ
Âu sang Á nữa, chiếc ngai vàng thống trị thế giới đã phải lùi về đồng
cỏ Nguyên Mông, mắt trừng ứa máu nhìn về phía trời Nam xa thẳm,khép
lại trang sử oai hùng để nuối tiếc!
Dù muốn hay không thì nhiều đất nước đã mang ơn người Đại Việt.
Sức mạnh khuấy trời đã lụi tàn từ đấy.
Trang xâm lăng
Khép lại thủa dọc ngang.
Sử hùng bi
Run rẩy chép kinh hoàng.
Quân bách thắng tan thành quân chiến bại .
Người Đại Việt chuyển vần Càn khôn thái
Pháo reo vui thắng lợi khắp trời Nam.
Hoa anh đào thêm thắm đảo Phù Tang
Dòng sông Nin giáo dài thôi khuấy nước
Khắp Á- Âu vó ngựa kiêu lùi bước
Mắt trừng...nuối tiếc những giang sơn.
Những chân trời dần lặng tiếng khóc than
Bao đổ nát, bao tro tàn sống lại
Những đất nước chưa ngập tràn vó ngựa phi điên dại
Đã qua cơn ác mộng hung tàn.
Đây ! Bạch Đằng Giang.
Đây ! Chiến thắng huy hoàng.
Bao gương mặt anh hùng còn mãi.
Sử nhân loại đúc vàng trang chói lọi
Xửa xưa dân Việt diệt thù.
Sông muôn đời dội lại tiếng quân hô.
Gió lộng trời xưa-mây tung bay cờ xí.
Hồn Nước kết tinh dân kỳ vĩ.
Khí thiêng sông núi kết tinh hoa.
Sóng vỗ vang xa!
Bạch Đằng Giang...
Hát mãi khúc hùng ca!
Duy Hùng