Giai thoại bà Hồ Xuân Hương
Tiểu sử của bà Hồ Xuân Hương (胡 春 香) đến nay vẫn còn nhiều điểm gây tranh cãi; chưa rõ năm sinh và năm mất, chỉ biết bà sống vào khoảng đầu nhà Nguyễn. Một vài tài liệu ghi bà sinh năm 1782, mất năm 1822.
Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ.
Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn Hữu Tiến, Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn ở làng Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Nhà nghèo không thể tiếp tục học, ông ra dạy học ở vùng Hà Bắc, để kiếm sống. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của mối tình duyên đó.
Ba lấy chồng muộn mà hai lần đi lấy chồng (Tổng Cóc, rồi quan Tri phủ Vĩnh Tường), hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc.
Có tài liệu ghi rằng trong thời gian ngồi dạy học, bà có người học trò tên
Nguyễn Thị Hinh, đó là nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan về sau.
Các tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài thơ chữ Nôm truyền miệng. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là "Bà chúa thơ Nôm".
Về chữ Hán, bà để lại nhiều tập thơ: Đề vịnh Hạ Long, Đồ Sơn bát vịnh, Hương Đình cổ nguyệt thi tập, Lưu Hương ký.
1/Đọc thơ chữa thẹn Tục truyền, hồi Xuân Hương còn đi học, một hôm gặp trời mưa, đến sân trường, đất trơn, cô trò gái trượt chân ngã oạch một cái, các đồng môn thấy thế đều cười ầm lên.
Nhưng Hồ Xuân Hương đã đứng dậy ngay, ung dung đọc hai câu thơ quốc âm rằng:
Dang tay với thử trời cao thấp,
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài. Rồi cất nón bình thản đi vào. Còn mấy chàng học trò, thấy nàng ứng khẩu chữa thẹn tài tình như thế thì cũng phục, không dám chòng ghẹo gì thêm nữa.
2/Mảnh tình xẻ đôi Hồ Xuân Hương vốn nổi tiếng tài hoa, lại hay bày ra các cuộc xướng hoạ văn thơ ở trong nhà để làm vui, nên khách khứa thường lui tới nhà bà rất đông. Trong số đó những khách yêu chuộng văn chương mà đến thì cũng có; song hạng khách vô công rỗi nghề vì tò mò mà đến, hoặc vì sĩ diện hão mà đến cũng không phải là hiếm.
Một hôm, có một công tử con quan, học hành thì dốt nát nhưng áo quần lúc nào cũng bảnh bao đến chơi nhà Xuân Hương. Xuân Hương lúc ấy đang bận ở nhà trong, vả cũng đã biết đó là một anh chàng tầm thường không muốn tiếp, bèn cho cô nhài ra mời trầu; cơi trầu có quả cau bổ đôi kèm theo mảnh giấy đề hai câu thơ như sau:
Mảnh tình ví xẻ làm đôi được,
Mảnh để trong nhà, mảnh đệ ra! Chàng công tử xem thơ xong, chừng liệu sức mình không đối chọi nổi, bỏ cả trầu không dám ăn, lặng lẽ chuồn về luôn.
Nhưng được mấy hôm, không hiểu tiếc rẻ như thế nào, người ta lại thấy chàng công tử ấy dẫn xác đến.
Lần này, Xuân Hương lại sai cô nhài bưng cơi trầu ra mời. Chàng công tử giơ tay định nhót miếng trầu ăn, chẳng ngờ lại thấy có mảnh giấy với bài thơ tứ tuyệt rằng:
Quả cau nho nhỏ, miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương đã quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá, bạc như vôi! Chàng công tử đọc đi đọc lại mãi, mà vẫn chẳng hiểu ý tứ thế nào. Sau nghĩ kỷ mấy chữ “Này của Xuân Hương đã quệt rồi” cảm thấy lờ mờ rằng mình bị xỏ, nhưng lại lúng túng mãi chẳng biết đường hoạ.
Thế là lần thứ hai, chàng công tử tốt mã ấy lại đành bỏ trầu, chuồn thẳng.
Nghe đâu, từ đấy cậu cả không còn dám lai vảng tới cửa nhà Xuân Hương nữa.
3/Ấy ái uông Một hôm, Hồ Xuân Hương đến thăm chùa Địch Lộng ở vùng Ninh Bình. Thấy khắp chùa chỗ nào cũng nhan nhản những thơ đề vịnh, Xuân Hương thú lắm, liền đi dạo xem.
Đang lúc ấy, bỗng có hai người ăn diện bảnh bao, có tiểu đồng theo hầu, bước vào chùa. Họ ngắm cảnh một lát, rồi một người lấy bút đề lên khoảng tường trắng bài thơ rằng:
Thấy tớ thong dong dạo cảnh chùa,
Cầm thư lưng túi, rượu lưng hồ.
Cá khe lắng kệ, đầu ngơ ngác,
Chim núi nghe kinh, cổ gật gù.
Then cửa từ bi chen chật cánh,
Nén hương tế độ cắm đầy lò.
Nam mô khẽ hỏi nhà sư tí,
Phúc đức nhà ngươi được mấy bồ? Người ấy vừa buông bút, người thứ hai đã vội khen lấy khen để; rồi đón lấy bút nói: “Bây giờ đệ xin phép bác, cũng thử vịnh mấy vần chơi cho vui nhé”. Bài thơ như sau:
Mây tan, mưa tạnh, liễu xanh om,
Qua mái thiền quan ghé mắt dòm.
Ngoài cửa vòng tay hai chú béo,
Trong gian chống gối một anh còm.
Chênh vênh án kệ chuông vàng tía,
Lấp ló bình hương Phật đỏ lòm.
Tới cảnh lấy chi mà vãng cảnh?
Quì hai gối xuống gật xòm xòm! Bài thơ vừa đề xong, thì người thứ nhất cũng khen lại rối rít. Thế rồi, kẻ trước người sau cứ tâng bốc nhau mãi lên tận trời.
Xuân Hương đứng gần đấy, lấy làm lạ tới coi thử. Nhưng khi đọc thơ xong thì Xuân Hương thấy ngượng cho những ý tứ sỗ sàng trong hai bài thơ, không chịu được liền nhổ toẹt một bãi nước bọt.
Hai người kia bực mình, hỏi Xuân Hương vì sao mà lại nhổ nước bọt. Xuân Hương thủng thẳng đáp: “Tôi thấy lời lẽ trong thơ các vị không xứng đáng là lời của người quân tử!”.
Hai người ra vẻ không bằng lòng nói: “Chị đã có ý chê thơ của chúng tôi như thế, vậy nhà chị thử hoạ một bài như thế nào?”.
Xuân Hương trả lời ngay: “Gì chứ hoạ thơ của hai thầy thì cũng dễ thôi. Chỉ trừ khi có hạn vần thì mới khó hoạ!”
Hai người cũng tỏ vẻ ta đây sành sỏi trong làng thơ, liền nói luôn: “Hạn vần sao lại khó được, chị thử hạn vần rồi chúng tôi hoạ cho mà coi!”
Xuân Hương mới đọc câu:
Lượng cả xin ông chớ hẹp hòi! Rồi bảo: “Đó, các thầy hoạ đi! Hạn vần “cái gì hòi” thì được, chớ cấm dùng “hẹp hòi”
Hai người ngẩn mặt ra nghĩ mãi, sau có một người phải đọc liều:
Sẽ lại gần đây, tớ thẩm hòi! (1) (1) Nói lái lại: hỏi thầm.
Rồi họ chống chế cho đỡ thẹn: “Giá chị cho vịnh hẳn một vật thì chúng tôi mới có hứng mà làm".
Xuân Hương đáp: “Thế cũng được! Vậy hãy vịnh thơ “Cái chuông”, mà hạn vần uông ở câu thứ hai”.
Hai người đã trót lỡ lời, đành phải ngồi nặn óc suy nghĩ. Đánh vần đã vã cả mồ hôi trán, mà thơ vẫn chưa ra được câu nào.
Sau, Xuân Hương thấy họ cứ “chuông”, “uông” … mãi, sốt ruột, mới đọc hai câu rằng:
Năm ba thằng ngọng đứng xem chuông,
Nó bảo nhau rằng “ấy ái uông”! Vừa là làm giúp, mà lại vừa có ý nói móc hai người. Rồi nhân tiện thấy họ cứ làm bộ hay thơ mãi, Xuân Hương ghét mặt, mới đọc dồn luôn cho bốn câu nữa:
Dắt díu đưa nhau đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên.
Ai về nhắn bảo phường lòi tói, (2)
Muốn sống đem vôi quét trả đền! (2) Lòi tói: tiếng cổ, có nghĩa là dốt nát. Phương ngôn có câu “Dốt lòi tói”.
Đọc xong đùng đùng bỏ về thẳng. Để mặc cho hai người kia đứng trơ mắt nhìn nhau, vừa thẹn, vừa tức, vừa phục.
4/Đánh trống qua cửa nhà sấm Một hôm Hồ Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, nàng đang lững thững bên bờ hồ Tây, bỗng có mấy thầy khoá bước rảo lên theo sát ở đằng sau. Rồi các thầy giở giọng chớt nhả ra trêu ghẹo nàng. Có thầy lại hứng chí tung văn chương chữ nghĩa ra nữa.
Xuân Hương thấy họ trêu ghẹo thì vẫn lặng thinh không nói gì. Nhưng đến khi nghe cái thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy thì không nhịn được nữa, nàng mới quay lại, đọc dồn cho các thầy một bài thơ rằng:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ?
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa,
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa! Bấy giờ, các thầy khoá nghe giọng thơ thì biết ngay là đã gặp phải bà chúa Hồ Xuân Hương. Riêng thầy đọc thơ lúc nãy thì thẹn chín người vì đã trót đánh trống qua cửa nhà sấm. Rồi đó, các thầy bấm nhau lui lại, để cho Xuân Hương đi trước.
5/Ham tìm chỗ ấy Tương truyền một hôm vừa có mấy tao nhân mặc khách đến nhà Hồ Xuân Hương chơi thì trời đổ mưa. Hồ Xuân Hương khi ấy đang ở nhà dưới, vội rảo bước qua sân lên nhà trên tiếp khách. Bởi đi vội nên chẳng may giẫm chân phải hòn gạch gập ghềnh, bùn nước bắn vọt ngay lên. Chắc là bùn vọt lên cao bên trong váy làm Hồ Xuân Hương khó chịu, bất giác lấy tay xoa xoa vào chỗ … bị ướt. Chẳng ngờ cử chỉ của Hồ Xuân Hương lại bị mấy ông khách nhìn thấy. Họ khúc khích vừa cười vừa nói nhỏ gì đó với nhau. Hồ Xuân Hương mặt đỏ bừng ứng khẩu đọc luôn hai câu thơ chữa thẹn như sau:
Nê nính do tri tầm hảo xứ
Mạc tương thố thủ tiếu anh hùng Tạm dịch:
Bùn nhão còn ham tìm chỗ ấy
Anh hùng tay thọc chớ cười chi. Câu thơ đã chọc đúng tâm lý cánh mày râu, khiến mấy ông khách chẳng thể trêu chọc gì hơn được nữa. Thế là tất cả đều cười ồ lên vui vẻ…
(Còn tiếp)
**************
Viết theo: 1/
Giai thoại văn học Việt Nam, Kiều Thu Hoạch Nxb Văn học, Hà Nội, 2007
2/
Hồ Xuân Hương, Tác phẩm, thân thế và văn tài, Nguyễn Văn Hanh, Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn tái bản, 1968
3/ Trang thơ Hồ Xuân Hương trên Thi viện
4/ Website vi.wikipedia.com