Đình làng Bình phú (Châu giang, Hưng yên) có bài phú “Dạ trạch tiên gia” (Nhà tiên ở Dạ trạch), chữ Hán, chạm khắc trên bảng văn, viền hoa văn, treo chính giữa Đại bái. Theo Bài phú, tác giả nhận là Chử Đồng Tử, tức Chử tiên, một trong “ Tứ bất tử”, đã “giáng bút”. Một người trong làng, là Hàn lâm viện thị độc, sao lại, cung tiến vào tháng Giêng, năm Đinh Mão (1927). Theo truyền thuyết, Chử Đồng Tử, sinh ra và lớn lên trong một gia đình chài lưới nghèo khổ. Nhưng chàng gặp và lấy được Công chúa Tiên Dung. Vì là tiên, nên Chử Đồng Tử đã “về trời”, lúc 30 tuổi, cùng với vợ. Nơi hóa thân tạo thành vùng đầm lầy, nay mang tên Dạ trạch.
CLB Thơ Hán -Việt- Pháp biên tập trên cơ sở Bảng văn đã nêu trên, theo hình thức song ngữ đối chiếu, dùng trong nội bộ và bạn đọc yêu thích, thực hiện tháng 9-2007.
Trương Đăng Xung, Đỗ Quang Liên sưu tầm, phiên âm Hán Việt, dịch thơ, phú. Trần Thế Hào chế bản chữ Hán.
Ghi chú: Đình Đa hòa (xã Bình Minh, huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên) có bài phú tương tự như bài này, có ghi là do Chu Mạnh Trinh, người làng Phú Thị, Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1892) chép lại.
Để tiện theo dõi phần chữ Hán, phiên âm, xin trích từng đoạn một. Phần dịch thơ và phú để ở cuối mỗi phần. 夜 澤 仙 家 賦 玉 闕 天 高, 金 臺 地 闢. 雲 萬 丈 以 騰 飛 ,水 千 重 而 凝 碧. 扁 舟 泛 泛, 誰 從 訪 蓬 萊 仙 境 之 虛 無; 夜 澤 汒 汒, 我 獨 創 帝 子 因 緣 之 屬 籍; 相 傳江 上 遇 皇 女 以 成 親; 誰 識仙 班 本 珠 宮 之 莫 逆. 雄 王 之 世, 十 九 相 承; 帝 曰 有 邦 彼 姝 者 子. 乃 從 星 而 顯 耀, 還 駕 雨 來赤 藤 勝 地 之 間; 因 伐 木 以 裁 樓, 別 向 風 問白 社 圓 基 之 址. 是 處 仙 家 雞 犬, 何 事 飛 昇; 偶 然 大 澤 龍 蛇, 相 爭 護 庇. 杏 栽 千 樹, 藥 餌 遍乎 方 民; 桃 贈 萬 家, 吟 詠 傳 於 閭 里. Dạ Trạch tiên gia phú Ngọc khuyết thiên cao, Kim đài địa tịch. Vân vạn trượng dĩ đằng phi, Thủy thiên trùng nhi ngưng bích Biển chu phiếm phiếm, thùy tòng phảng bồng lai tiên cảnh chi hư vô; Dạ Trạch mang mang, ngã độc sáng đế tử nhân duyên chi thuộc tịch. Tương truyền giang thượng, ngộ hoàng nữ dĩ thành thân; Thùy thức tiên ban, bản châu cung chi mạc nghịch. Hùng Vương chi thế, thập cửu tương thừa; Đế viết hữu bang, bỉ chu giả tử. Nãi tòng tinh nhi hiển diệu, hoàn giá vũ lai xích đằng thắng địa chi gian; Nhân phạt mộc dĩ tài lâu, biệt hướng phong vấn Bạch xã viên cơ chi chỉ. Thị xứ tiên gia kê khuyển, hà sự phi thăng; Ngẫu nhiên đại trạch long sà, tương tranh hộ tí. Hạnh tài thiên thụ, dược nhị biến hồ phương dân; Đào tặng vạn gia, ngâm vịnh truyền ư lư lý.
Dịch: Phú nhà tiên Dạ Trạch Cửa ngọc trời cao, Lầu vàng đất mở. Nước biếc ngàn trùng, Mây bay vạn ngả. Lênh đênh thuyền nhỏ, ai biết nơi bồng lai tiên cảnh là đâu; Mờ mịt đầm khuya, ta chắp mối Hoàng nữ lương duyên kỳ ngộ. Chốn tiên cung, đã có an bài; Nơi bến nước, nên duyên chồng vợ. Nối đời mười chín, thời đại Hùng Vương; Gái cũng như trai, kế thừa nghiệp cả. Từ tiên sao hiển phép, theo cơn mưa, dừng chân nơi khí vượng Xích đằng; Rồi chặt gỗ dựng lầu, cưỡi làn gió, hạ giáng chốn đất lành Bạch mã. Nhà tiên nơi ấy, chó gà chạy nhảy tưng bừng, Đầm lớn ngẫu nhiên, rồng rắn thi nhau hộ vệ. Trồng nghìn cây hạnh, thuốc hay chữa khắp miền dân; Cho vạn gốc đào, ngâm vịnh lan truyền khắp xã.
Dạ Trạch tiên gia phú Phần II (tiếp theo) 時 則: 月 明 夜 靜, 江 闊 天 空 或 乘 舟 而 垂 釣, 或 倚 杖 以 迎 風. 攜 手 高 臺, 弄 玉 蕭 而 鳳 降, 識 針 還 閣, 聯 金 字 而 鴛 同. 塵 埃 風 景 蒼 汒, 難 容 久 住, 日 月 壺 天 隱 約, 每 動 高 蹤. 乃 辭 帝 闕, 上 表 陳 情. 旋 向 神 山, 訪 予 舊 侶. 赤 松 是 兩 師 遊 戲 ,神 農 之 世 非 遙, 蒼 頡 生 文 字 契 書, 盤 古 之 風 可 緒. 回 頭 江 渚, 三 十 年 之 托 跡 轉 空; 扣 手 天 門, 九 萬 里 之 高 歌 有 自. 樓 臺 亦 幻, 枌 梓 空 留. 江 波 寂 寂, 雲 影 悠 悠. 閱 古 今 之 陳 跡; 感 禾 黍 於 郊 邱. 萊 公 之 竹 成 林, 德 能 兆 異; 潘 令 之 桃 結 實, 我 亦 何 求. Thời tắc: Nguyệt minh dạ tĩnh, Giang khoát thiên không. Hoặc thừa chu nhi thùy điếu, Hoặc ỷ trượng dĩ nghênh phong. Huề thủ cao đài, lộng ngọc tiêu nhi phượng giáng; Thí châm dật các, liên kim tự nhi uyên đồng. Trần ai phong cảnh thương mang, nan dung cửu trú, Nhật nguyệt hồ thiên ẩn ước, mỗi động cao tung. Nãi từ đế khuyết, Thượng biểu trần tình. Toàn hướng thần sơn, Phỏng dư cựu lữ. Xích Tùng thị vũ sư du hí, Thần Nông chi thế phi dao; Thương Hiệt sinh văn tự khế thư, Bàn Cổ chi phong khả tự. Hồi đầu giang chử, tam thập niên chi thác tích chuyển không; Khấu thủ thiên môn, cửu vạn lý chi cao ca hữu tự. Lâu đài diệc ảo, Phần tử không lưu. Giang ba tịch tịch, Vân ảnh du du. Duyệt cổ kim nhi trần tích, Cảm hòa thử ư giao khâu. Lai công chi trúc thành lâm, đức năng triệu dị; Phan lệnh chi đào kết thực, ngã diệc hà cầu.
Dịch
Đúng lúc: Trăng thanh đêm vắng, Sông rộng trời trong. Hoặc bơi thuyền câu cá, Hoặc chống gậy nghênh phong. Dắt tay lên lầu cao, thổi tiêu ngọc gọi chim phượng đến; Thử kim trên gác vắng, thêu chữ vàng rõ dáng uyên bay. Nơi trần ai cảnh vật mênh mang, khó bề ở mãi; Vừng nhật nguyệt rọi soi mờ tỏ, nhớ nghĩa cao dầy. Dã từ cửa khuyết, Dâng sớ tâu bày. Xin trở lại cõi tiên, Để hội cùng bạn cũ. Kìa Thương Hiệt giỏi bề văn tự, Bàn Cổ chưa xa; Nọ Xích Tùng biết phép làm mưa, Thần Nông còn nhớ. Nhìn lên tiên giới, tiếng cầm ca chín vạn dặm đang lừng; Quay xuống bãi sông, dấu lưu lại ba mươi năm không rõ. Lâu đài mờ ảo, Làng xóm hư không. Sóng sông dào dạt, Mây núi mênh mông. Cổ kim chuyện cũ, Ngô lúa đầy đông. Trúc Lai công lại mọc thành rừng, đức sinh điềm lạ; Đào Phan lệnh đâm hoa kết quả, ta cũng thỏa lòng.
Nhiên nhi Thiệu Bá cam đường bất phạt, tổng nhân tâm chi tư mộ; Sở dĩ Dương Công nghiễn thủ hưng ngôn, thị lai giả chi trù mâu. Viết đình, viết các, Thành ấp, thành đô. Tiên tung phí điểu, Vãng sự hoang vu. Củng lạp lâm gian, Tề Đông dã chi vọng ngôn khả tiếu, Mạc duy giang thượng, Việt bắc phương chi giai thoại hoàn vô. Hư dĩ truyền hư, Tín nan khả tín. Nhân tư cựu trạch, nhi bất vong, Ngã độc phi linh, nhi mặc vận. Thạch khởi năng ngôn chi vật, chuyển dã hà đằng, Cối truyền tả nữu chi văn, thị thùy mậu đãn. Toại sử thiên thu vận sự, di tích nan bằng, Thí khấn nhất phiến nhàn vân, tiên tung bất mẫn.
Chư quân độc thư, nghi tế tâm phẫu tích, vật khả nhân vân diệc vân. Kim ngã dữ chư quân hữu duyên, đặc phụ kê bút giáng đàn, tác thử “ Dạ trạch tiên gia phú ”, dĩ phá thiên cổ chi hoặc. Khả huyền vu chính trung điện ngoại.
Chử tiên tự ký. Long phi Đinh mão Mạnh xuân, Ấp tử Hàn lâm viện thị độc phụng sao cung tiến.
Dịch Cây cam đường Thiệu Bá còn kia, tình dân lưu luyến; Núi Nghiễn thủ Dương công qua đó, lòng khách vấn vương. Này sân, này gác, Thành ấp, thành đô. Gót tiên phiêu lãng, Chuyện cũ mơ hồ. Quây màn tắm bãi, Triệu bắc phương bịa đặt mơ hồ; Úp nón gậy tre, Tề đông dã truyền tin vô bổ. Sai đúng chưa tin, Thực hư khôn biết. Thân ta thăng hóa về trời, Mọi người nhớ đầm da diết. Hòn đá không thể nói nên lời, Cỏ cây chuyển thành văn chưa hết. Tích cũ còn ghi trong sách khó tin, Gót tiên như áng mây trôi bất diệt. Các ngươi đọc sách phải phân tích kỹ càng, chớ thấy người xưa nói sao tin vậy.
Ta với các người vốn có duyên, nên đã giáng bút làm bài phú “Nhà tiên Dạ trạch” này để giải tỏa những điều mê hoặc từ ngàn xưa còn lại Bảng này nên treo ở chính giữa điện ngoài.
Đức Thánh Chử tự ghi
Long phi, Tháng giêng năm Đinh mão (1905) Người của làng làm trong Hàn lâm viện đọc hầu, kính cẩn dâng bản sao chép.
Chú thích:
(1) Xích Đằng: tên xã thuộc tổng An Tảo, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên (nay thuộc huyện Kim Thi, tỉnh Hưng Yên). (2) Xích Tùng: một trong Bát tiên của Đạo giáo thần tiên TQ. (3) Thần Nông: một trong Ngũ Đế TQ thời cổ, đã có công dạy dân biết trồng trọt và chữa bệnh. (4)Thương Hiệt: người Trung Quốc thời cổ,có công sáng tạo chữ Hán. (5) Bàn Cổ: nhân vật thần thoại Trung quốc, thủy tổ của muôn loài. (6) Chử giang: đoạn sông Hồng chảy qua bãi Chử Xá, quê Chử Đồng Tử và nơi gặp Tiên Dung công chúa. (7) Chử Đồng Tử sống tại cõi trần 30 năm, lại trở về cõi tiên. (8) Lại Công trúc: loại trúc ở Kinh châu, mang tên người họ Lại. (9) Thiệu Bá: tức Thiệu Công Thích, có công lao thời sơ Chu, được phong thái ấp ở đất Thiệu. Người đời sau trồng cây cam đường để ghi nhớ đến ông .
LỜI GIỚI THIỆU ĐINH NHẬT THẬN (1814 – 1864), người xã Thanh Liêu, tổng Cát Ngạn, huyện Thamh Chương, phủ Anh Sơn, tỉnh Nghệ An (nay thuộc huyện Thanh Chương, Nghệ An) đỗ Cử nhân năm 1837, đỗ Tiến sĩ (Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân) năm Mậu Tuất, Triều Minh Mạng (1838), được bổ làm Tri phủ. Khi hành sự, do phạm lỗi, bị cách chức. Tương truyền, Ông là người thông minh, có trí nhớ tuyệt vời, đọc sách qua một lượt là thuộc; thường giao du với Cao Bá Quát. THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM – (Khúc ngâm của khách đi đường đêm thu) là bài thơ chữ Hán, đọc âm Hán-Việt, viết thể song thất lục bát, có kèm theo bản dịch tiếng Việt của tác giả. Thấy đây là trường hợp hiếm có trong Văn học Việt nam, CLB Thơ Hán -Việt –Pháp, Đỗ Quang Liên sưu tầm và phiên âm, Trần Thế Hào chế bản chữ Hán. Tài liệu dùng trong nội bộ và xin gửi tặng bạn đọc yêu thích. Để tiện theo dõi, xin được trình bày theo từng khổ 4 câu. 秋 夜 旅 懷 吟 丁 日 慎 THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM Khúc ngâm của khách đi đường đêm thu
ĐINH NHẬT THẬN 秋 夜 静 天 光 隱 約 隔 疏 簾 淡 酌 金 罍 天 時 人 事 相 催 浮 生 若 夢 幾 回 為 歡 Thu dạ tĩnh thiên quang ẩn ước Cách sơ liêm đạm chước kim lôi Thiên thời nhân sự tương thôi Phù sinh nhược mộng kỷ hồi vi hoan
Dịch: Đêm thu lặng bóng trời thấp thoáng Cách rèm thêu chuốc chén kim bôi Thiên thời nhân sự tương thôi Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi hân hoan 人 對 景 花 間 月 照 景 撩 人 樹 梢 風 吹 這 般 料 少 人 知 閒 來 風 月 與 誰 為 秋 Nhân đối cảnh hoa gian nguyệt chiếu Cảnh liêu nhân thụ sảo phong xuy Giá ban liệu thiểu nhân tri Nhàn lai phong nguyệt dữ thùy vi thu Người đối cảnh hoa gian trăng tỏ Cảnh trêu người ngọn gió rung cây Nỗi niềm ai biết chăng ai Cùng ai trăng gió đêm này với thơ 詩 四 絕 怡 愉 雅 愛 酒 三 杯 瀟 洒 離 懷 灯 前 獨 對 書 齋 傷 心 客 地 有 懷 古 人 Thi tứ tuyệt di du nhã ái Tửu tam bôi tiêu sái li hoài Đăng tiền độc đối thư trai Thương tâm khách địa hữu hoài cổ nhân Thơ nhã ái bốn câu buông vận Rượu ly hoài ba chén làm khuây Trước đèn một chốn thư trai Chạnh lòng đất khách nhớ người đời xưa
Thu dạ lữ hoài ngâm (Tiếp theo, trang 2) 香 水 外 忽 聞 漁 韻 從 何 來 棹 進 江 邊 徘 徊 月 夜 霜 天 寒 山 暗 認 客 船 更 非 Hương thủy ngoại hốt văn ngư vận Tòng hà lai trạo tiến giang biên Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên Hàn sơn ám nhận khách thuyền cánh phi Dịch: Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng Thuyền từ đâu chèo thẳng bên giang Lờ mờ đêm nguyệt trời sương Thuyền ai tưởng khách non Hàn, lại không
曲 江 水 何 時 大 杜 一 孤 舟 繫 故 園 心 時 留 八 首 詩 吟 令 人 旅 思 轉 深 鄉 情 Khúc giang thủy hà thì Đại Đỗ Nhất cô chu hệ cố viên tâm Thời lưu bát thủ thi ngâm Linh nhân lữ tứ chuyển thâm hương tình Khúc giang thủy nhớ ông Đại Đỗ Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ Hứng thu đề tám bài thơ Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng 昔 我 往 青 青 柳 絮 兩 三 聲 初 語 黃 鶯 而 今 菊 已 含 英 柳 陰 庭 外 寒 鳴 秋 蟬 Tích ngã vãng thanh thanh liễu nhứ Lưỡng tam thanh sơ ngữ hoàng oanh Nhi kim cúc dĩ hàm anh Liễu âm đình ngoại hàn minh thu thuyền Xưa ta đi liễu đang xanh thế Chim hoàng oanh thỏ thẻ ba câu Bằng nay cúc đã hoa thâu Liễu kia nghĩ cũng âu sầu vì ve
Thu dạ lữ hoài ngâm (Tiếp theo, trang 3) 昔 我 去 翻 翻 桃 臉 兩 三 枝 初 占 東 風 而 今 蘭 已 成 叢 桃 夭 軒 外 落 從 寒 霜 Tích ngã khứ phiên phiên đào kiểm Lưỡng tam chi sơ chiếm đông phong Nhi kim lan dĩ thành tùng Đào yêu hiên ngoại lạc tùng hàn sương Dịch: Xưa ta đi đào khoe tiếu kiểm Ngọn đông phong mới điểm ba hàng Bằng nay lan đã chồi sương Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu 胡 為 乎 凄 凉 客 舍 日 優 遊 幾 个 冠 童 安 能 夜 夜 書 房 芭 蕉 泣 露 昆 虫 鳴 秋 Hồ vi hồ thê lương khách xá Nhật ưu du kỷ cá quan đồng An năng dạ dạ thư phòng Ba tiêu khấp lộ côn trùng minh thu Làm chi vậy buồn rầu đất khách Ngày quan đồng mượn thích làm khuây Có đêm nương bóng hồi tây Tiếng sương khóc lá, hơi may gọi trùng 胡 為 乎 怡 愉 旅 館 歲 逡 巡 已 半 霜 煙 安 能 暮 暮 書 軒 風 搖 庭 竹 月 懸 屋 梁 Hồ vi hồ di du lữ quán Tuế thuân tuần dĩ bán sương yên An năng mộ mộ thư hiên Phong dao đình trúc nguyệt huyền ốc lương Lại chi vậy lạnh lùng quán lữ Năm sương yên hết nửa đi rồi Có đêm ngồi nhẫn thư trai Gió lay bến trúc, nguyệt cài trên lương 不 是 做 何 郎 投 筆 將 忠 肝 為 國 從 軍 此 身 空 冒 風 塵 坐 中 虛 視 寢 時 徒 聞 Bất thị tố hà lang đầu bút Tương trung can vị quốc tòng quân Thử thân không mạo phong trần Tọa trung hư thị tẩm thần (thì) đồ văn Nào có phải như chàng ném bút Vì vua mà đòng mác cho cam Luống đem thân thế cát lầm Thấy ngồi hổ mặt; nghe nằm thẹn tai
Thu dạ lữ hoài ngâm (Tiếp theo, trang 4) 不 是 做 何 人 捧 檄 將 孝 心 離 戚 從 官 他 鄉 何 事 盤 桓 白 雲 飛 處 牡 丹 開 時 Bất thị tố hà nhân phủng hịch Tương hiếu tâm ly thích tòng quan Tha hương hà sự bàn hoàn Bạch vân phi xứ mẫu đơn khai thần (thì) Nào có phải như ai vâng hịch Vì thân mà xa cách cho xong Bỗng không khách địa bình bồng Trông mây lại nhớ, xem bông lại buồn 今 日 自 海 濱 遠 顧 一 輕 帆 直 渡 歸 陵 鄉 魂 沸 沸 如 甑 逐 帆 忽 已 破 層 層 波 Kim nhật tự hải tân viễn cố Nhất khinh phàm trực độ quy lăng Hương hồn phí phí như tăng Trục phàm hốt dĩ phá tằng tằng ba Ngày nay đứng trông miền biển rộng Một lá buồm thẳng dóng về cồn Lòng quê đâu đã cuồn cuồn Phút theo buồm vượt mấy ngàn sóng khơi 明 日 自 山 家 遠 朓 片 孤 雲 帶 曉 浮 空 鄉 心 裊 裊 如 蓬 隨 雲 忽 已 過 重 重 山 Minh nhật tự sơn gia viễn diểu Phiến cô vân đới hiểu phù không Hương tâm niểu niểu như bồng Tùy vân hốt dĩ quá trùng trùng san Ngày mai đứng trông nơi non thẳm Một làn mây sớm ngắm trên không Lòng quê đâu đã bồng bồng Phút theo mây kéo mấy trùng non xa 何 日 是 鄉 關 雁 信 悠 悠 難 寫 尽 心 情 夜 聞 妙 諦 鍾 聲 海 門 鼓 響 御 城 炮 催 Hà nhật thị hương quan nhạn tín Du du nan tả tận tâm tình Dạ văn Diệu đế chung thanh Hải môn cổ hưởng ngự thành pháo thôi Trông tin nhạn biết là đâu tá Tâm tình này ai tả cho nên Đêm chùa Diệu đế chuông rền Trống vang cửa biển, súng rên thành vàng
Thu dạ lữ hoài ngâm (Tiếp theo, trang 5) 江 曲 曲 腸 迴 曲 曲 景 悠 悠 夜 復 悠 悠 蕭 條 館 旅 亭 秋 鄰 家 樁 楮 江 頭 棹 聲 Giang khúc khúc trường hồi khúc khúc Cảnh du du dạ phục du du Tiêu điều quán lữ đình thu Lân gia thung chử giang đầu trạo thanh Dịch Sông quằn quại, ruột càng quằn quại Cảnh đìu hiu, đêm lại đìu hiu Lữ du ai chẳng tiêu điều Tiếng chày trong xóm, tiếng chèo ngoài sông 嗟 客 地 吁 縈 心 事 嘆 閨 人 情 緒 可 憐 更 深 灯 滅 案 前 含 情 掩 扇 空 懸 月 明 Ta khách địa hu oanh tâm sự Thán khuê nhân tình tự khả liên Canh thâm đăng diệt án tiền Hàm tình yểm phiến không huyền nguyệt minh Thân đất khách não nùng tâm sự Thương người quê tình tự bấy giờ Đêm khuya cơn tỏ, cơn mờ Gẫm tình che quạt, luống thừa bóng trăng 孤 枕 裡 三 更 寤 寐 片 幽 懷 誰 是 為 憐 情 頭 夜 半 無 人 睡 來 报 蝶 醒 辰 鳴 雞 Cô chẩm lý tam canh ngụ mị Phiến u hoài thùy thị vi lân Tình đầu dạ bán vô nhân Thụy lai báo điệp tỉnh thần minh kê Năm canh những mơ màng trên gối Mảnh tình này biết nói cùng ai Thương này đêm vắng không người Ngủ thời bướm báo, dậy thời gà kêu 有 時 或 鄉 閨 夕 炤 下 堂 來 欲 造 花 樓 忽 驚 燕 葺 泥 巢 鸞 羞 炤 鏡 鳳 愁 懶 梳 Hữu thì hoặc hương khuê tịch chiếu Hạ đường lai dục tháo hoa lâu Hốt kinh yến tập nê sào Loan tu chiếu kính phượng sầu lãn sơ Hoặc có lúc bóng chiều trong khổn Bước xuống thềm lại muốn lên lầu Phút nghe con én kêu sầu Lược rầu tóc chải, gương rầu mặt soi
Thu dạ lữ hoài ngâm (Tiếp theo, trang 7) 望 不 見 翻 翻 我 獨 顧 琴 軒 強 欲 為 情 忽 瞻 蝶 戲 蘭 屏 含 棲 穿 屩 復 行 西 園 Vọng bất kiến phiên phiên ngã độc Cố cầm hiên cưỡng dục vi tình Hốt chiêm điệp hý lan bình Hàm thê xuyên cược phục hành tây viên Dich Trông chẳng thấy lại về đứng đợi Đoái cầm hiên toan gợi ngón đàn Bướm đâu trêu cợt bình lan Buồn tình mang dép ra vườn hái hoa 今 必 謂 秋 天 靜 好 我 良 人 將 到 歸 期 遑 知 世 路 蹺 蹊 關 山 千 里 未 期 曷 来 Kim tất vị thu thiên tĩnh hảo Ngã lương nhân tương đáo qui kỳ Hoàng tri thế lộ nhiêu khê Quan sơn thiên lý vị kỳ hạt lai Rày hẳn bảo: “trời đà mát mẻ Lương nhân ta có lẽ gần về...” Biết đâu đường thế nhiêu khê Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng
今 必 謂 我 離 永 久 自 長 安 或 抱 衾 裯 風 情 慣 似 風 流 繁 花 矧 又 皇 州 帝 城 Kim tất vị ngã li vĩnh cửu Tự Trường an hoặc bão khâm trù Phong tình quán tự phong lưu Phồn hoa thẩn hựu hoàng châu đế thành Rày hẳn nói mình chừng lâu ở Ôm chăn mềm hoặc đã có người Phong lưu tính đã quen rồi Phồn hoa lịch sự lại mùi Tràng An 苟 非 有 人 情 也 者 胡 而 春 而 夏 而 秋 由 來 紫 閣 紅 樓 英 雄 不 住 丈 夫 難 持 Cẩu phi hữu nhân tình giả dã Hồ nhi xuân nhi hạ nhi thâu (thu) Do lai tử các hồng lâu Anh hùng bất trụ trượng phu nan trì
Nếu chẳng thế, bàn hoàn chi mãi Hết xuân rồi, hạ lại sang thu Lầu hồng cung cấm ấy ru Anh hùng lại với trượng phu ai từ