Le Van Cuong đã viết:
ở đây có ai biết bài thơ "Nguyễn Phi Khanh dặn con (là ông Nguyễn Trãi)" không. Bài này được viết khi Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Trung Quốc và khi đó Nguyễn Trãi có theo hầu cha đến cửa khẩu thì Nguyễn Phi Khanh có đưa cho nguyễn trãi 1 bức thư dặn Nguyễn Trãi hãy quay về giúp nước nhà.
Bạn ạ!
Á Nam Trần Tuấn Khải (1894-1983) cảm tác trước sự kiện Năm 1407 "Khi quân nhà Minh xâm lược nước Việt, Nguyễn Phi Khanh (1355?-1428, Hàn Lâm học sĩ nhà Hồ) bị Trương Phụ (Tướng nhà Minh) bắt và giải về Trung Quốc, hai con trai ông là Nguyễn Trãi và Nguyễn Phi Hùng muốn đi theo phụng dưỡng cha già cho tròn đạo hiếu. Đến Ải Nam Quan, Phi Khanh khuyên bảo Nguyễn Trãi quay về Thăng Long nuôi chí diệt giặc tính đền nợ nước mới là làm tròn đại hiếu." cảm khái viết "Hai Chữ Nước Nhà", bài thơ được viết theo điệu cung oán (Song thất lục bát).
Tác giả và tác phẩm bạn có thể tìm đọc trong phần lưu trữ của Thi ViệnHAI CHỮ NƯỚC NHÀ
(Phỏng theo lời Nguyễn Phi Khanh dặn con là
Nguyễn Trãi trước giờ ly biệt trước Ải Nam Quan)Chốn Ải Bắc mưa sầu ảm đạm,
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề vượn hú chim kêu
Đoái xem phong cảnh như khêu tấc lòng
Hòn máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dặm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định
Mấy nghìn năm suy thịnh, đổi thay
Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì.
Than vận nước gặp khi biến đổi
Để quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm hoạ xương rừng, máu sông.
Nơi đô thị thành tung, quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ, lìa con
Làm cho xiêu tán, mỏi mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đau ?
Thảm vong quốc kể sao xiết kể
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi đất khóc, trời than.
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này.
Khói Hồng Lĩnh như xây khối uất
Sóng Long Giang nhường vật cơn sầu
Con ơi càng nói, càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà ?
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tôn khi trước
Đã từng phen vì nước gian lao
Bắc, Nam một cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn giây.
Kià Trưng Nữ ra tay buồm lái
Phận liễu bồ xoay với cuồng phong
Giết giặc nước, trả thù chồng
Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi.
Kià Hưng Đạo gặp khi quốc biến
Vì giống nòi quyết chiến bao phen
Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên
Gươm reo chính khí, nước rền dư uy.
Coi lịch sử gương kia còn tỏ
Mở dư đồ đất nọ chưa tan
Giang san này vẫn giang san
Mà nay xẻ nghé, tan đàn vì ai ?
Con nay cũng một người trong nước
Phải nhắc cân Gia- Quốc đôi đường
Làm trai hồ thỉ bốn phương
Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng
Thời thế có anh hùng là thế
Chữ vinh hoa xá kể làm chi
Mấy trang hào kiệt xưa kia
Hy sinh thân thế cũng vì nước non
Con đang độ đầu son tuổi trẻ
Bước cạnh tranh há dễ nhường ai
Phải nên thương lấy giống nòi
Đừng tham phú qúy mà nguôi tấc lòng
Kiếp luồn cúi đỉnh chung mà nhục
Thân tự do chiên chúc mà vinh
Con ơi nhớ đức sinh thành
Sao cho khỏi để ô danh với đời
Chớ lần nữa theo loài nô lệ
Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai
Đem thân đày đoạ tôi đòi
Nhục nhằn bêu rếu muôn đời hay chi ?
Sống như thế sống đê, sống mạt
Sống làm chi thêm chật non sông
Thà rằng chết quách cho xong
Cái thân cẩu trệ ai mong có mình
Huống con cũng học hành khôn biết
Làm giống người phải xét nông sâu
Tuồng chi gục mặt cúi đầu
Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành ?
Nỗi tâm sự đinh ninh dường ấy
Cha khuyên con có bấy nhiêu lời
Con ơi, con phải là người
Thì con theo lấy những lời cha khuyên.
Cha nay đã muôn nghìn bi thảm
Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau
Chân mây, mặt cỏ rầu rầu
Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương.
Lời cha dặn khắc xương, để da
Mấy gian lao con chớ sai nguyền
Tuốt gươm thề với xương thiên
Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu
Gan chiến sỹ vững sau như trước
Chí nam nhi lấy nước làm nhà
Tấm thân xẻ với sơn hà
Tượng đồng bia đá họa là cam công
Nửa mai mốt giết xong thù nghịch
Mũi long tuyền lau sạch máu tanh
Làm cho đất động, trời kinh,
Bấy giờ quốc hiển, gia vinh có ngày.
Nghiã vụ đó con hay chăng tá ?
Toan tính sao vẹn cả đôi đường
Cha dù đất khách gửi xương
Trông về cố quốc khỏi thương hồn già.
Con ơi!
Hai chữ Nước - Nhà
"Mở cửa nhìn Trăng - Trăng tái mặt
Khép phòng đốt Nến - Nến rơi châu"