Bên con đường rộng qua thôn Vỹ Dạ, gần kinh thành Huế, trước một khu vườn rậm rạp thuộc phủ Tuy Lý, trên bờ sông Hương, khách qua lại thương nhìn thấy một cái cổng xây trên đề ba chữ: "Chu hương viên", hai bên có kèm một đôi câu đối chữ Hán:
Khoái mã trưòng chu đông tây đắc lộ,
Hầu môn cự thất tả hữu vi lân.
Và một đôi câu đối Nôm:
Ưng học thi tiên, thẳng đó một đường lên Vỹ Dạ
Muốn nghe kinh Phật, cách đây vài cửa đến Ba La.
Từ cổng vào mấy chục thước, giữa đám cây xanh, ẩn hiện một tòa nhà ngói, không tráng lệ nguy nga, nhưng đầy ý thơ dấu cổ, với sân lát bến xây, tường hoa non bộ, bên trong thì viện sách, hiên đàn, lầu thơ, đài Phật, hoành phi, câu đối, sập gụ, ghế bành. Chủ nhân, đầu tóc bạc phơ, vóc người mảnh khảnh, dáng điệu ung dung, mắt sáng như gương, miệng cười như hoa nở. Đó là Thúc Giạ Ưng Bình lão tiên sinh, một thi ông nức tiếng của làng nho nước nhà.
Tiên sinh là con Cụ Hiệp tá Tiểu Thảo Hồng Thiết, mẹ là bà Nguyễn Thị Huệ, cũng thông thạo chữ Hán, có những bài thơ truyền tụng: Nhớ quê, thượng cầm hạ thú, xuất gia ..., Tiên sinh là cháu nội Đức ông Tuy Lý Vương (một đại thi hào Việt Nam, tác giả Vỹ Dạ hợp tập).
Tiên sinh sinh năm Đinh Sửu, 1877, tốt nghiệp trường Quốc học Huế, đỗ đầu kỳ thi ký lục năm 1904, đỗ Cử nhân Hán học năm Kỷ Dậu,1909 (33 tuổi).
Tiên sinh bắt đầu làm Ký lục năm 1904, sau bổ Tri huyện, lần lượt
thăng Tri phủ, Viên ngoại, Thị lang, Bố chánh, Tuần vũ, Phủ Doãn Thừa Thiên, rồi về hưu và thăng Thượng thư trí sự năm 1933 (57 tuổi)
Sau đó, Tiên sinh có làm Hội trưởng hội Truyền bá Quốc-ngữ Trung kỳ năm 1939-1940, viện trưởng Viện Dân biểu Trung kỳ năm 1940-1945, thăng Hiệp Tá Đại Học Sĩ năm 1943 (67 tuổi ).
Tiên sinh đã từng được thưởng nhiều huy chương, như Đệ nhị hạng Long bội tinh, Đệ nhị hạng Kim Khánh, Đệ ngũ hạng Bắc đẩu bội tinh, Huy chương Hàn lâm viện... Tính người vui vẻ, cử chỉ tự nhiên, đức độ khác thường, lại thêm hiếu khách, cho nên Tiên sinh đã được bạn hữu nể vì, nhân dân mến phục.
Đối với một người giàu cảm tính, sẵn hoa cốt, lại sành âm nhạc như Tiên sinh, thì những khi rảnh việc phải là những lúc ngắm cảnh nước biếc non xanh, thưởng hát nghe đàn, ngâm thơ uống rượu. Tiên sinh ham nhất là các điệu tuồng cổ, ca Huế, hò mái nhì, cả đến ca trù, chèo cổ. Tiên sinh thường tự soạn khúc hát, tự cầm roi chầu, cười nói phong lưu, khiến ai cũng nhận thấy cái tâm hồn nghệ sĩ.
Từ danh lam thắng cảnh tuyết nguyệt phong hoa đến tài tử giai nhân kỳ thư cổ họa, từ thuở thiếu niên phong vận đến dịp lục, thất, bát tuần, nỗi bi hoan, tình ly hợp, cơn binh lửa, buổi thanh bình, đều là những đề tài xướng họa của Tiên sinh. Mấy bài sau đây là làm trước khi về trí sĩ .
ĐI CHƠI THUYỀN
Một giải non sông một gánh tình,
Cũng phường gái lịch với trai thinh.
Khúc ca lưu thủy miền Đông độ
Điệu hát hò khoan nốc Quảng bình.
Mở túi càng vui thi Lý Bạch,
Nghiêng hồ chẳng chán rượu Lưu Linh.
Đến chiều thứ bảy khi hưu hạ,
Đã có tri âm bạn với mình.
năm 1922, 46 tuổi
THỊ LANG BỘ HỌC THĂNG BỐ CHÁNH HÀ TĨNH LƯU GIẢN
Trở lại thành Xuân chửa mấy hồi,
Phân kỳ lại đã chén ly bôi.
Chim đương khoẻ cánh chưa màng ổ,
Ngựa đã quen đường cứ nhẹ roi.
Cái nợ tang bồng thân phải gánh,
Tấm gương ngay thảo dạ thường soi.
Hồng Lam cũng một nơi danh thắng,
Ai nhớ ai thời thử đến coi.
Năm 1927, 51 tuổi
TIẾT TRÙNG DƯƠNG NĂM ĐINH MÃO Ở HÀ TĨNH
Xa ngái nhau chi mấy dặm trường,
Gió mưa thêm trạnh tiết Trùng dương.
Hoa lau trổ bạc đầu phơi tuyết,
Đóa cúc phai vàng mặt giãi sương.
Trăm giận nghìn thương câu cảm tác,
Một say mười tỉnh chén tha hương.
Non Hồng thử dạo lên cho đến,
Bẻ nhánh thù du giữ lấy hương.
Năm 1927, 51 tuổi
BUỔI CHIỀU ĐI DẠO BỜ SÔNG TỨC CẢNH
Cám thương danh lợi cả hai thằng,
Kẻ chống người chèo bộ xí xăng.
Ghét cụm bèo trôi che bóng nước,
Giận chòm mây nổi khuất vành trăng.
Chim khôn nhác bẫy nhìn không đậu,
Cá dại ham mồi thấy phải ăn.
Câu hát bên sông thêm chạnh nỗi,
Ông chài lơ lửng có nghe chăng !
Năm 1932, 56 tuổi
Khi được về trí sĩ nơi Vỹ dạ, Tiên sinh lại càng có dịp để thỏa mãn cái thị hiếu thanh cao, và làm cho phong trào thi ca ở Huế ngày càng thêm thịnh , Chốn hưu đình của Tiên sinh nghiễm nhiên đã thành nơi hội ngâm của Thi xã Hương Bình mà Tiên sinh đã được làng thơ bầu làm Chủ súy đến ngày nay. Những buổi trăng trong , gió mát, thả con thuyền lờ lững trên mặt nước sông Hương, Tiên sinh thường cùõng với các bạn làng thơ mà thi, tửu, cầm , ca, quên cả hình hài để sống cuộc đời Lý Đỗ. Mấy bài sau đây tỏ rõ tâm hồn cao quý, lời văn diễm lệ của Tiên sinh.
PHỦ DOÃN VỀ HƯU
Mừng đến bến ba mươi năm bể hoạn,
Lái còn nguyên lèo lạt hãy còn nguyên.
Ngoắt ông câu cậy gởi con thuyền,
Ôm sách cũ lại theo miền núi cũ.
Biết đủ dầu không chi cũng đủ,
Nên lui đã có dịp thì lui.
Sẵn có đây phong nguyệt kho trời,
Câu hành lạc cập thời ta chớ trể.
Có lầu Ngạc liên huy, có đình Lai vũ thể,
Hội Kỳ anh thêm lắm vẻ phong tao,
Thỏa lòng rày ước mai ao.
năm 1933, 57 tuổi
GỞI ÔNG PHAN KỈNH CHỈ
Cẩm tú hồ sơn vi địa chủ,
Hỏi còn ai hơn chú Phan Lang,
Có ca cơ, có thi hữu, có ngọc dịch quỳnh tương,
Sông Hãn có, sông Hương mình chẳng có.
Chắp cánh những mong ra đến đó,
Dừng chèo xin hãy đợi chờ đây.
Khúc tỳ bà hãy cứ lên dây,
Câu bạch tuyết thêm gây mùi xướng họa.
Ngã tối liên khanh, khanh ái ngã,
Dệt tờ mây nong nả đứng, ngồi, trông,
Thấu tình Thúc Giạ hay không ?
năm 1933, 57 tuổi
KHUYÊN HỌC PHẬT
Đường danh nẻo lợi ngó đông đông,
Chen chúc nhau chi đám bụi hồng.
Kìa bóng bạch câu qua chẳng lại,
Nọ tranh thương cẩu có rồi không ;
Dở cười dở khóc trên sân khấu,
Khi nở khi tàn mấy cụm bông.
Sao kiếp phù sinh cho khỏi lụy,
Quyển kinh câu kệ chớ nài công.
Năm 1934, 58 tuổi
VIẾNG PHAN MẠNH DANH TIÊN SINH
Cuộc đời đã mãn giấc nam kha,
Để lại cho đời quyển Bút hoa,
Hồn cụ Tố Như như có biết,
Đá ba sanh hẹn chẳng nài xa.
Năm 1942, 66 tuổi
CẢNH SÔNG THU
Xa xa bóng nhạn giữa trời thu,
Nước biếc mây xanh lẫn một màu.
Chuốc chuốc tìm sâu trên vạc cỏ,
Le le nhởn sóng cạnh bờ lau.
Lẹ làng nốt ruổi bơi qua đó,
Êm thắm thuyền tình đậu ở đâu.
Lưu thủy hành vân thanh điệu cổ,
Trên sông nghe vắng đã từ lâu.
Năm 1945, 69 tuổi
VIỆC ĐỜI
Kể từ năm Dậu đến năm nay,
Xuân lại xuân qua cũng thế này.
Trắng đỏ cuộc cờ đi đủ nước,
Xanh vàng mối chỉ nhuộm nhiều tay.
Hoa vườn thượng uyển không ai ngắm,
Rượu chốn sa trường có kẻ say.
Hàng lệ non sông rơi đã khắp,
Tấm lòng trời đất rõ chăng đây !
Năm 1949, 72 tuổi
VÀI CÂU HÒ MÁI NHÌ
Chiều chiều trước bến Văn lâu, ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông ?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.
...
Một vũng nước trong, mười dòng nước đục,
Một trăm người tục, một chục người thinh.
Biết đâu gan ruột gởi mình,
Mua tơ thêu lấy tượng Bình Nguyên Quân.
Cuộc đời của Tiên sinh có một chuyện vui lạ nhất, là lễ điếu sống Tiên sinh do các bạn làng thơ bày đặt vào mùa xuân năm Tân mão 1951 khi Tiên sinh 75 tuổi.
Nhân trong cuộc hội ngâm, mấy vị đã nhắc tới những bài điếu văn tuyệt tác, Tiên sinh có nhận thấy rằng các bạn già nên được phúng ngay từ khi còn sống mới thửơng thức được những bài thơ văn sinh điếu của các thi hữu xa gần, và của nhiều người mà Tiên sinh chửa từng quen biết. Rồi một hôm cách đó hơn ba tuần, bạn bè các nơi tấp nập đến viếng Tiên sinh. Lúc bấy giờ tại hưu đình Lộc Minh, la liệt đối trướng treo kín mấy bức tường, ngổn ngang giấy tờ bày trên mặt áng, xanh đỏ xen nhau, nào văn tế, nào câu đối, nào thơ, nào ca trù, nào ca Huế, nào hò mái nhì, lời vui hơn tết. Tận đằng xa, đã nhìn thấy trương đăng kết thái, lại vẳng nghe thấy tiếng rộ cười, xen lẫn với tiếng ngâm đọc du dương, tiếng đàn ca thánh thót.
Bài văn tế và đôi câu đối sau đây là của cụ Nguyễn Khoa Vy, do ông Dược sĩ Nguyễn Văn Lộc đã quì đọc mừng Tiên sinh trong dịp lễ Sanh điếu :
Ai ơi !
Nhân dục vô nhai ,
Thiên cơ mạc liệu .
Vẫn biết sống già mệt xác , trăm người cũng muốn sống giai.
Tuy rằng chết trẻ khỏe ma, mấy kẻ mà ưng chết yểu ?
Kính duy Tiên sinh :
Mến cảnh điền viên,
Nặng tình lang miếu ;
Niên xỉ tuy cao ,
Tinh thần chẳng yếu
Làm thi ca đầy đủ tinh tình,
Đặt tuồng vãn đành rành âm điệu.
Trước xuất sĩ vô tòa Bảo hộ, đậu cử nhân qua chức Nam triều,
Sau hồi hưu thay mặt nhân dân, làm Viện trưởng nên tài Đại biểu.
Hay dè dặt lời ăn tiếng nói, vẫn không ngọng bởi xôi chùa,
Cứ thẳng ngay nước bước đường đi, nào có oam như tre miễu.
Ba bốn tỉnh làm quan thanh bạch, vàng thoi bạc nén không dư ,
Mấy mươi năm vui thú giang hồ,gió mát trăng thanh chẳng thiếu
Có ngôi mạng phụ, đã lo âu giữ mối cầm giường,
Thêm vị tiểu tinh, lại săn sóc quạt màn sửa chiếu.
Trai lớn khôn Bửu Tường, Bửu Bá, cũng tài ba sẵn tính thông minh,
Gái ngây thơ Hỷ Thọ , Hỷ Khương, đủ công hạnh có bề yểu điệu.
Tiểu Thảo đình cảnh cũ, thêm tươi màu ngọc điệp kim chi,
Tuy Lý phủ gương xưa, thường tỏ vẻ thần trung tử hiếu.
Quận triều trọng vọng, đã là ông chức tước cao cao,
Sơn thủy nhàân du, lại có vẻ thần tiên tiểu tiểu.
Hôm nay :
Gặp tiết xuân quang,
Lễ bày sanh điếu .
Rượu trà có sẵn đầy ve,
Trướng liễn treo lên đủ kiểu.
Kẻ câu thi, người câu đối,văn chương khác thể gấm thêu,
Kìa sắc đỏ,nọ sắc xanh, phiên vách nhuốm màu vóc nhiễu.
Bạn bè lui tới, nghe ngâm nga nào có nghe than,
Con cháu vô ra, thấy vui vẻ mà không thấy mếu.
Bàn bàn tiệc tiệc, ngát ngào hương rượu cúc trà sen,
Hát hát ca ca, tươi tốt sắc má đào mày liễu.
Khi sống thử làm khi chết, Cụ ưng chơi mà họ chẳng dám chơi,
Chuyện buồn đem diễn chuyện vui, mình tưởng diểu mà ai cho là diểu.
Ba vạn sáu ngàn ngày có mấy,
dẫu hèn dẫu quý, đò âm dương một chuyến phải qua,
Một trăm hai chục tuổi là ai,
nào dại nào khôn, lẽ Tạo hóa muời phần đã hiểu.
Gặp gỡ nay đà đủ mặt, chén kim bôi rượu thọ chúc mừng,
Dở hay chi cũng tiếng mình, bài văn tế món quà xin biếu
Phục duy phủ giám
Câu đối :
Cô Huệ, cô Na, đương học vở kép đào,
họ quyết yêu cầu thầy ở lại ;
Ông Lý, Ông Đỗ, dẫu ngứa nghề ngâm vịnh,
ai cho nghinh tiếp Cụ về chơi.
Một thi sĩ vô danh đã có bài thơ viếng như sau :
Tuổi bảy mươi lăm, Phật ở đời,
Vui khi còn sống, điếu mà chơi .
Con dâng lễ cúng, hầu ban chuyện,
Bạn viết văn ai, đến chọc cười.
Xót mắt bụi trần, chưa nỡ nhắm,
Nóng lòng vận nước để chờ coi.
Hoàng gia nguyên lão còn không mấy ,
Dưới đất văn chương nỏ thiếu người.
Cụ Tống Nguyên Nguyễn Hữu Hậu cũng có bài ca trù viếng như sau :
Phù sinh nhược mộng,
Ai sống đây, mà điếu sống ai đây?
Phải chăng người tri kỷ xưa nay,
Là thi bá tiếng thầy Thúc Giạ Thị.
Tao đàn sẵn nếp nhà Tuy Lý,
Hoạn bộ dừng chân bước Thượng thơ.
Vẻ người trang nhã dễ ưa,
Khi chén rượu lúc câu thơ tình tính đủ.
Văn thái phong lưu nhân bất hủ,
Với Hương Bình còn lắm thú thanh cao,
Gió trăng ngày tháng tiêu dao.
Tiên sinh có tạ lại các bạn làng thơ bằng một bài ca trù sau đây :
Xuân phong vô dạng,
Mình còn đây mà liễn điếu bạn đi đây.
Xanh xanh đỏ đỏ chưng đầy,
Hàng Nhựt có, hàng Âu tây cũng có.
Ngâm luật ngôn ngôn giai cẩm tú,
Ca trù tự tự tẫn châu ky,
Những câu ca câu đối lại siêu kỳ,
Thiệt chết cũng e khi mừng sống lại.
Huống thử bạch đầu xuân tự tại,
Bảy mươi lăm xuân hãy còn xuân,
Ngỏ lời tạ đấng văn nhân.
Năm Bính thân 1956 là tiệc thọ 80 của Tiên sinh. Lại yến ẩm đàn ca, lại thơ tự thuật với hàng trăm bài họa lại .
TÁM MƯƠI TUỔI TỰ THUẬT
Ngựa tre rong ruổi thú reo cười,
Nay đã thành ông cụ tám mươi.
Còn lắm tỉnh say theo cuộc thế,
Trải bao chua ngọt với mùi đời ;
Lựa vai quan lão thêm nghề hát,
Cắp bút thầy đồ sẵn chuyện chơi.
Già hẳn kém duyên chưa kém nợ,
Nợ thi nợ tửu vướng nhiều nơi.
Sáu, bảy lần lên bậc tám mươi,
Sống lâu sức khỏe đội ơn trời.
Chẳng hề nói phách khi ra rạp,
Nên khỏi ăn năn chuyện ở đời ;
Đòi bữa muối dưa quen dạ vị,
Cậy nghề nghiên bút đỡ sinh nhai.
Gặp người hiếu cổ ưa văn cổ,
Bán một đôi câu cũng đủ xài .
CÂU HÁT MÁI NHÌ NHÂN DỊP 80 TUỔI
Vỹ dạ thôn có lão Vương tôn là Thúc Giạ,
Ưng ca ưng hát, ưng giã gạo hò khoan,
Ham vui điệu cổ thi đàn,
Nghe câu tuyệt xướng muôn vàng cũng mua.
Sông Vị ngồi câu, vuốt chòm râu ông Lữ Vọng ,
Lên dù xuống võng đã phá tan giấc mộng phiền ba;
Nghêu ngao thú vị yên hà,
Tám mươi xuân vẫn đượm đà với xuân.
Bài thơ họa sau đây là của Cụ Ngư Xuyên Hoàng Xuân Vịnh
Còn biết bao xuân với nụ cười
Tám mươi, rồi tới chín mười mươi...
Nào thơ, nào rượu, ham vui bạn,
Vì nước, vì non, phải mến đời
Vầy tiệc đình hưu nhiều chuyện thú,
Xem tuồng sân khấu lắm trò chơi
"Thọ bôi" một chén đường muôn dặm
Mượn cánh hồng mang đến tận nơi.
Cuối mùa xuân năm Mậu tuất 1958 (82 tuổi) Tiên sinh bỗng bị đau nặng. Trong khi ngọa bịnh, Tiên sinh vẫn thiết tha với bạn thơ, cho nên đã có bài“Bệnh trung ngâm” như sau đây :
Lão phu đà vướng bệnh tương ty,
Mơ mộng khôn khuây bởi cớ gì ?
Đã biết nhà Nho theo chánh đạo
Thường mong cửa Phật đến qui y
Đường xa cậy có tin thanh điểu
Xuân muộn còn nghe tiếng tử qui
Duyên nợ văn chương tình hữu ái
Dễ gây thương nhớ bạn làng thi.
Các bạn làng thơ xa gần đều rất đổi băn khoăn: nào săn sóc thuốc thang, ân cần thăm hỏi, nào lập đàn tụng kinh niệm Phật để cầu an cho Tiên sinh.
Cụ An Đình Trần Kinh đã họa lại bài thơ trên như sau :
Thiếu chi thi bá dưới âm ty
Thúc Giạ xin ông chớ vội gì
Rán ở lại đây nơi bạch xã
Để cùng vui với bạn ô y
Câu văn lành mạnh lời kim thạch
Chén rượu thơm nồng vị thục qui
"Bình phục" hôm nay mừng chúc Cụ
Tấc thành kính họa mấy vần thi
Cụ Quì Ưu Nguyễn Đôn Dư cũng họa như sau :
Mái tóc đài gương nặng tuyết ty
Phong sương dẫu nhuốm chửa can gì
Tâm hồn đau khổ nào ai biết
Dung mạo nhân từ thấy vẫn y
Mỏi gối còn đua tài thất bộ
Nhức đầu vẫn nhớ nguyện tam qui
Ơn Trời, ơn Phật phù trì Cụ
Khỏe cánh bền quai với bạn thi
Khi bình phục, nhân được các thi hữu đặt tiệc rượu mừng, Tiên sinh có tạ lại bằng một bài thơ :
Nâng cao chén rượu của làng thi
Gây tấm yêu đương dạ kỉnh vì
Đông đủ khéo v%E
☆☆☆☆☆ Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook