Bài viết của bạn hay quá, chắc bạn cũng có và đọc khá nhiều thơ của các bậc tiền bối nhỉ, mong sẽ được đọc nhiều bài viết của bạn gửi lên đây nữa :-)
Mình còn nghĩ đến mấy bài tế vợ và bỏ vợ này nữa:
"Khóc Bằng phi" (vua Tự Đức):
Ới thị Bằng ơi đã hết rồi
Ới tình ới nghĩa ới duyên ơi
Trưa hè nắng chái oanh ăn nói
Sớm ngỏ trưa sân liễu đứng ngồi
Đập cổ kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn y lại để dành hơi
Mối tình muốn dứt càng thêm bận
Mãi mãi theo hoài chứ chẳng thôi.
Bỏ vợ lẽ cảm tác (Nguyễn Công Trứ):
Mười hai bến nước một con thuyền,
Tình tự xa xôi đố vẽ nên.
Từ biệt nhiều lời lo ngắn giấy
Tương tư nặng gánh chứa đầy then.
Rồi đây nỏ biết quên hay nhớ,
Từ đó mà mang nợ với duyên.
Tình ấy trăng kia như biết với,
Chia làm hai nửa giọt hai bên.
Văn tế sống vợ (Tú Xương):
Con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ
Mặt nhẵn nhụi, chân tay trắng trẻo, ai dám chê rằng béo rằng lùn ?
Người ung dung, tính hạnh khoan hoà, chỉ một bệnh hay gàn hay dở.
Đầu sông bãi bến, đua tài buôn chín bán mười
Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ
Gần xa nô nức, lắm gái nhiều trai
Sớm tối khuyên răn, kẻ thầy người tớ.
Ông tu tác cửa cao nhà rộng, phó mặc tay dâu,
Anh lăm le bia đá bảng vàng, cho vang mặt vợ
Thế mà:
Mình bỏ mình đi, mình không chịu ở
Chẳng nói chẳng rằng, không than không thở.
Hay mình thấy tớ: nay Hàng Thao, mai phố Giấy mà bụng mình ghen ?
Hay mình thấy tớ: sáng Tràng Lạc, tối Viễn Lai, mà lòng mình sợ ?
Thôi thôi chết quách yên mồ, sống càng nặng nợ
Chữ nhất phẩm ơn vua vinh tứ ngày khác sẽ hay,
Duyên trăm năm ông Nguyệt xe dây, kiếp này đã lỡ.
Mình đi tu cho thành tiên thành phật, để rong chơi Lãng Uyển Bồng Hồ,
Tớ nuôi con cho có rể có dâu, để trọn vẹn đạo chồng nghĩa vợ.
PS: bài viết của bạn có lẽ nên chuyển sang phần Cổ thi VN thì thích hợp hơn nhỉ ?
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.