Đại bàng dẫn lối, voi tầm bờ sông;
Vương nhi cưỡi ngựa dốc lòng,
Rừng sâu vững bước, cố công tìm tòi.
Phu nhân võ nghệ tuyệt vời,
Giật cây thương địch, tiến lui tung hoành;
Lão Chu song kiếm giao tranh,
Tả xung, hữu đột, quyết dành thế ưu.
Mấy tên lính đã dính chiêu,
Kêu la thảm khốc, bọt bèo thiệt thân;
Hai người cố sức cản ngăn,
Giữ cho vương tử đang dần bơi xa.
Dần dần, Trời đã sáng ra;
Một bày người ngựa liệu đà khép vây
Tưởng như tận số rồi đây?
Voi từ đâu, bỗng lao ngay đến gần;
Ngưa trông, bủn rủn khuỵu chân;
Vòi quăng, chân đạp…voi thần xung phong.
Mấy tên lính nhảy xuống sông,
Bị voi quật ngã, không hòng chạy xa;
Những tên cưỡi ngựa mất đà;
Ngựa đang rủn vó, lăn ra cùng người;
Nhiều tên gan dập, ruột lòi,
Thiệt thân theo bước chân voi xéo dày.
Mấy tên sống sót chắp tay:
-“ Phu nhân tha mạng! ơn này nhớ ghi!”
Đang tay giết chúng làm chi?
Lão Chu lôi dậy, trói ghì gốc cây;
Thả ra một đứa: -“ Đi ngay!
Báo cho Thống Quốc tỏ hay ý Trời!”
Nắng chiều nhợt nhạt, đơn côi;
Một người, một ngựa dưới Trời mưa giông;
Vương nhi mệt mỏi, đói lòng,
Từ đêm qua, vốn đã không ăn gì!
Tay ôm cổ ngựa, lả đi;
Rừng sâu, núi thắm, đến khi cùng đường.
Màn đêm đã lại vội buông;
Gầm gừ, tiếng Hổ bất thường đâu đây.
Tay quờ vách đá, mới hay
Một khoang trống rỗng, đẩy ngay ngựa vào;
Lá khô, vun một đống cao,
Đập đá đánh lửa, thú nào chẳng lui?
Đợi cho hổ dữ đi rồi,
Bước ra đỉnh núi, cất lời hét vang;
Phu nhân, Chu Bộc bình an,
Cưỡi voi, hướng núi, vội vàng đi ngay;
Chợt nghe: -“ Quốc Tuấn ở đây!”
Con voi mừng rỡ, như bay tìm người.
-“ Con ta đã thoát nạn rồi!”
Phu nhân bái lạy Đất Trời, reo lên.
Lão Chu rưng rức tự nhiên;
Quá mừng, khó nén nỗi niềm, khóc vui.
Tột cùng sung sướng qua rồi;
Sinh tồn kế sách, ai người không lo?
Quả cây, cũng lộc Trời cho;
Rừng sâu nào biết bao giờ thoát ra?
Đaị bàng tình nghĩa khó xa,
Lưng voi, lưng ngựa lại sà xuống chơi.
-“ Bây giờ, ta phải đi rồi!
Đại bàng hãy trở lại coi trông chùa!”
Vương nhi âu yếm tiễn đưa,
Chim bay về để giữ chùa bình yên.(VII)
Rừng sâu, núi hiểm triền miên;
Phu nhân gày rộc, nỗi niềm băn khoăn;
Lão Chu như tuổi tám lăm?
Chỉ riêng vương tử thêm phần tinh nhanh,
Đoán mưa, báo nắng đã sành;
Củ măng đắng, cũng cố tình nuốt trôi,
Cốt sao thân mẫu được vui;
Con cua, con cá lần hồi kiếm thêm.
Lão Chu bày tỏ ưu phiền
Rằng khi xuống núi, không tiền để mua;
Vương nhi khanh khách cười đùa:
-“ Tiền rừng, bạc biển, Còn chưa hài lòng?
Măng khô, mộc nhĩ, mật ong
Đổi chi chẳng được? Sao không thức thời?”
Quả là tài trí hơn người,
Còn mình lẩm cẩm- Già rồi hay sao?
Trái ngon, có lúc dồi dào;
Vương nhi trèo hái, khác nào Ngộ Không
Tưởng chừng đã tạm yên lòng;
Mà sao tai hoạ chất chồng, chẳng yên?
Trèo cây, lượm quả đã quen;
Cành cao, Chu Bộc leo lên nhẹ nhàng;
Với tay hái quả chín vàng;
Rắn xanh nằm cạnh, quay sang đợp liền;
Một lời không kịp thốt lên,
Vực sâu rơi xuống, hồn thiêng chầu Trời.
Thương thay cho một kiếp người
Đức tài, nhân nghĩa, trọn đời thuỷ chung.
Vương nhi đau đớn khôn cùng;
Phu nhân than khóc, đầy lòng xót thương;
Ngựa, voi cũng nhỏ lệ buồn
-“ Vì đâu nên nỗi tai ương thế này?”
Nghe lời mẹ những đắng cay;
Vương nhi rút kiếm, hạ ngay ác xà.
Hãy đưa Chu Bộc ra xa,
Tránh nơi núi đá để mà chôn thây.
Trời đêm lạnh lẽo heo may;
Mặc cho voi, ngựa rạch cây tìm đường.
Phu nhân cố nén đau thương,
Lòng riêng bao nỗi dặm trường âu lo:
Đường rừng tăm tối, lần mò;
Cầu Trời, niệm Phật độ cho an toàn.
Một đêm lặn lội gian nan,
Đến nơi rừng trúc bạt ngàn, xanh tươi;
Vưà khi có ánh mặt Trời,
Mới hay dưới bước chân voi: Đất màu!
Mẹ con xuống ngựa, bảo nhau
Cố công khoét một hố sâu chôn người.
Moi lên từng dúm đất rời;
Công việc nặng nhọc, cả đời chưa quen
Bất ngờ: Trong đất moi lên
Một thanh kiếm báu ( Ai quên nơi này?)
ánh xanh loé sáng, vừa tay
“ Phi Thiên Thần Kiếm” đề ngay đốc vàng.
Vung lên, bổ dọc, chém ngang-
ào ào gió nổi, ngàn ngàn đá bay,
Rừng xanh rung chuyển, lắt lay
-“ Trời ban Thiên kiếm!”Hét ngay giữa rừng;
Đoạn lo nốt việc nửa chừng;
Mẹ con moi huyệt,ròng ròng mồ hôi;
Qua gần cả một ngày trời,
Huyệt sâu đủ chỗ cho người nghỉ yên.
Ngựa, voi vun đất lấp lên;
Xác thân Chu Bộc gửi miền trúc xanh.
Mồ cao xếp đá chung quanh;
Tấm bia nặng nghĩa, trọn tình dựng ngay.
Mỗi người năm vái chia tay,
Mẹ con than khóc tỏ bày xót thương
Củi khô cháy sáng thay hương;
Vong linh siêu thoát, thuận đường quy Tiên.
Phu nhân mệt mỏi, ưu phiền,
Giữa nơi hoang dã, biết tìm đi đâu?
Ôm con, bao nỗi lo âu;
Vương nhi vừa mới gục đầu thiu thiu;
Ngồi nghe ngọn gió đìu hiu;
Hoàng hôn xuống núi, ráng chiều dần tan;
Bỗng nghe giọng nói nhẹ nhàng:
-“ A Di Đà Phật!” rõ ràng cạnh bên;
Phu nhân trố mắt đứng nhìn
Cao tăng, hoà thượng như Tiên giáng Trần,
Thanh cao, đôn hậu, từ tâm:
-“ Tôi chờ vương tử, phu nhân lâu rồi!
Đây là tiền định, duyên Trời!”
Bảy năm trước đã nghe lời tiên tri;
Nhân ngày sinh của Trọng nhi
Đoán rằng: -“ Sau ắt cứu nguy giúp đời!”
Bây giờ được gặp lại người,
Chuyện Chu Bộc chết đầu đuôi giãi bày.
Phán rằng: -“Thiên định là đây!
Không sao cưỡng được, sự này thông cho!”
Dẫn về ngọn núi bên hồ,
Am “ Giang lâm tự” nương nhờ, nghỉ ngơi.
Vài ngày lại sức, hoàn hơi;
Tiếp tục leo núi, tìm nơi an toàn,
Lánh sâu trong một toà am,
Chung quanh, rừng trúc bạt ngàn, bình yên.
Giao làm biển tự, đặt tên;
Vương nhi cầm bút viết liền một thôi:
“ Trúc Lâm Tự” có tên rồi; (VIII)
Khen thay nét chữ tuyệt vời tài ba.
Nơi này nhìn rộng, trông xa,
Cưỡi mây, đón gió, như là cõi Tiên.
Tạm thời gác bỏ niềm riêng,
Chiêu kinh, niệm Phật, bình yên đợi chờ,
Phu nhân cứ tưởng đang mơ;
Vương nhi quốc Tuấn chăm lo học hành,
Miệt mài binh pháp tinh anh,
Đợi ngày cứu nước, lưu danh muôn đời.
Khác gì dựng cột chống Trời?
Đang khi tốt xấu đầy vơi, mập mờ;
Lòng trung, ai đã hiểu cho?
Lại mang tiếng có ý đồ cướp ngôi,
Hoài vương Trần Liễu lẻ loi;
Quan quân Thống Quốc khắp nơi truy lùng.
Hiểm nguy đến bước đường cùng,
Dân binh giải thể, quyết không luỵ phiền,
Không vì chuyện hận thù riêng
Để dân chịu hoạ nhãn tiền, điêu linh;
Chỉ riêng Nguyễn Vũ nặng tình,
Vẫn luôn sát cánh bên mình đó đây.
Bao lần giải nạn, phá vây,
Cùng nhau, chủ tớ, rủi may một lòng.
Nhớ khi Nguyễn Vũ thành chồng,
A Thu thành vợ, mặn nồng sớm hôm;
Cũng nhờ Trần Liễu chủ hôn;
Lại thêm đã sớm sinh con nối dòng,
Đặt tên “Dã Tượng” tinh thông
Dạy voi, luyện võ chắc không kém tài.
Rừng sâu, đâu dễ gặp ai?
Vẫn lo phòng tránh mắt tai xét dò;
Một khi nắm đấm Vũ giơ,
Lợn rừng, gấu núi cũng cho toi đời;
Khi no, khi đói quen rồi!
Bữa thừa, bữa thiếu không lời kêu ca.
Hoài vương muốn ghé thăm nhà;
Vợ con lưu lạc, biết là ở đâu?
Đã ra công suốt bấy lâu,
Tìm mà chẳng thấy, nỗi đau chất chồng:
-“ Làm cha! Có cũng như không;
Đã vô tích sự, làm chồng mà chi?”
Lại lo Thủ Độ bức truy;
Chắc gì Chu Bộc giải nguy an toàn?
Thương thay thân phận con vàng;
Lưng cơm, củ sắn miên man đói lòng:
Khi củ chuối, bữa củ dong
Kho đầy thóc gạo, quyết không đụng vào (7)
Giơ xương, gày guộc chẳng nao;
Canh nhà, giữ của, lúc nào cũng siêng.
Lại thêm Vú Mỹ lành hiền,
Con cua, con tép kiếm tìm chạy ăn;
Củ khoai, cú sắn nuôi thân,
Con trai Chu Sỹ, giành phần chó ngoan.
Biết bao vui sướng, ngỡ ngàng:
Vương gia, Nguyễn Vũ đã đang trong nhà.
Chủ nhân sao đã quá già?
Tóc râu Nguyễn Vũ, ai mà biết ai?
Hoài vương trông thấy bé trai,
Hỏi rằng: -“ Đứa bé con ai đến nhà?”
Thưa rằng: -“ Báu ngọc vương gia
Ban cho Chu Sỹ, cháu là con con!”
Hỏi tên , vương lại nói luôn:
-“Cao kều, ta tặng tên thường: Yết Kiêu!”
Quay sang con chó đáng yêu,
Vương rằng: -“ Mi cứ ăn nhiều cho ta!
Phải lo khoẻ để trông nhà;
Bây giờ ra cổng giúp ta canh chừng!”
Vương nghe Vú Mỹ, hởi lòng
Chuyện quân Thủ Độ săn lùng ra sao?
Vương nhi lừa chúng thế nào?
Cưỡi voi ngụp lặn, xôn xao cả làng.
Vương nghe, khoan khoái cười vang;
Hỏi rằng: -“ Vương tử đi đàng nào đây?”
-“ Dạ thưa, đi theo hướng Tây!”
Trầm ngâm, Trần Liễu đoán ngay tức thì:
-“ Hoặc Trường Sơn, hoặc Ba Vì!
Bây giờ đến lúc ta đi tìm người!”
Dúi cho một thỏi vàng mười,
Mấy đồng bạc lẻ, lựa lời khuyên răn:
-“ ở nhà cố gắng dưỡng thân,
Đợi ngày Chu Sỹ, Phu nhân quay về!”
Lại xa trang ấp, hương quê;
Thương con, thương vợ bộn bề trong tâm.
Dải Trường Sơn, đã đến chân;
Tìm nơi hàng quán, hỏi thăm, lần mò;
Lựa lời khôn khéo, nhỏ to
Vừa tìm tung tích, vừa lo trông chừng;
E khi tai vách, mạch rừng,
Liệu bề ẩn hiện, chớ đừng dây dưa.
Tâm thành, Thần tiễn, Thánh đưa,
Hoài vương, Nguyễn Vũ lên chùa Bà Đanh;
Gió đêm lay động lá cành;
Đại bàng vỗ cánh, chao quanh một vòng;
Tiếng kêu đã lọt vào trong,
Báo cho hoà thượng đề phòng hiểm nguy.
-“ A Di Đà Phật! Việc chi?
Đêm khuya, ai đó? Cần gì đến đây?”
Khêu đèn, hoà thượng hỏi ngay.
-“ Lỡ đường, Phật tử vào đây nương nhờ!
Bẩm xin hoà thượng thứ cho!”
Hoài vương ngoài cửa, đợi chờ vào thăm.
Thấy người từ tốn, thành tâm;
Tiểu ra mở cửa, bớt phần hoài nghi.
Hoài vương, Nguyễn Vũ vội quỳ,
Hỏi thăm vương tử lánh đi phương nào?
Chuyện xưa, cơ sự ra sao?
Nhà sư kể lại, xiết bao ân tình:
-“ Vương nhi, khí chất thông minh,
Tên là Quốc Tuấn, tinh anh hơn người;
Lão nô Chu Sỹ tuyệt vời;
Phu nhân đức độ sáng nơi cửa Thiền
Mệnh Trời đã dứt chuân chiên?
Ba người, nay biết ở miền nào đây?”
Hoài vương nức nở khóc ngay:
-“ Vợ con ta khổ nhường này hay sao?”
Giật mình, hoà thượng vái chào:
-“ Bần tăng có mắt mà sao như mờ?
Xin ngài hãy xá tội cho!”
Cơm chay đãi khách vội lo chu toàn.
Thày trò Nguyễn Vũ quá giang,
Băng rừng, vượt núi, gian nan chẳng sờn;
Quyết tâm tìm vợ, kiếm con,
Hoài vương bao nỗi tủi hờn, đắng cay:
Vừa lo dò hỏi đó đây;
Vừa lo phòng vệ thoát vây kẻ thù.
Bặt tăm, tin tưc mịt mù;
Đường trường trắc trở, đèn cù quẩn quanh.
Thăng Long, trở lại nội thành;
Cho dù hy vọng mong manh chẳng còn!
Đêm nằm suy nghĩ thiệt hơn:
Muôn dân phồn thịnh, giang sơn vững bền;
Non sông Đại Việt bình yên,
Lời ca vang khắp mọi miền thôn quê,
Ơn vua, lộc nước tràn trề
Riêng mình chui lủi, bộn bề hờn căm?
Xét ra trong đạo quân thần,
Lệnh vua, phép nước muôn dân thi hành.
Bởi chưng Thủ Độ nhân danh,
Vua ban sắc chỉ - cũng đành chẳng sai.
Thuận Thiên, nay đã an bài
Bởi vua Trần Cảnh đức tài, có tâm.
- Đặng Văn Hoan -