Không hiểu sao những năm gần đây bỗng rộ lên phong trào viết trường ca. Riêng những bạn bè làm thơ mà tôi quen biết có đến sáu bảy người đã và đang viết trường ca. Điều này làm tôi nhớ những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, một loạt trường ca ra đời ghi lại dấu ấn của một thời oanh liệt. Có thể kể : Nguyễn Khoa Điềm với "Mặt đường khát vọng", Thu Bồn với "Bài ca chim Chrao", Hữu Thỉnh với "Đường tới thành phố", Thanh Thảo với "Những người đi tới biển"... Cho đến nay vẫn chưa có công trình nào thật công phu, nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện để rút ra những đặc điểm, những cái được và chưa được của trường ca đương đại Việt Nam. Dưới đây chỉ là một vài nhận xét nhỏ của tôi về bản trường ca "Vạn lý Trường Sơn" của nhà thơ Nguyễn Hữu Quý (NXB Quân đội Nhân dân ấn hành tháng 4 - 2009).
Trường ca là một thể loại không phải ai cũng viết được. Viết trường ca đòi hỏi tác giả phải có vốn sống thật phong phú, kiến thức thật sâu rộng và phải làm chủ ngòi bút của mình. Dung lượng và cấu trúc của một bản trường ca cũng là điều cần bàn. Ở trường ca "Vạn lý Trường Sơn", Nguyễn Hữu Quý đã mạnh dạn đưa vào một vài đoạn thơ văn xuôi, trích một vài trang nhật ký, ở một đôi chỗ anh sử dụng lối xuống dòng theo kiểu bậc thang...Nhưng điều quan trọng nhất là anh đã tạo được dấu ấn riêng về đề tài Trường Sơn. Trước đây, Nguyễn Hữu Quý đã có một số bài thơ hết sức xúc động viết về những người con ưu tú đã sống, chiến đấu và hy sinh trên tuyến đường lịch sử này . Quý từng là lính Trường Sơn. Anh sinh ra và lớn lên ở Quảng Bình nhưng mảnh đất mà anh gắn bó lâu dài là mảnh đất Quảng Trị . Có lẽ vì thế mà Trường Sơn đã trở thành nỗi ám ảnh trong tâm thức của anh. Đêm đêm anh vẫn mơ về Trường Sơn, tai anh luôn nghe những tiếng vọng từ Trường Sơn :
Trong dòng xoáy âm dương mờ tỏ
một binh đoàn mang dáng núi hiện lên.
"Vạn lý Trường Sơn" là sự kết tinh mảng đề tài mà anh tâm đắc. Trường ca không như một bài thơ dài hay truyện thơ. Những người viết trường ca thường chia tác phẩm ra nhiều chương, khúc. Các chương, khúc ấy gắn kết với nhau trong một hình tượng thơ nhất quán. Nhưng một số chương, khúc có thể tách ra khỏi trường ca như một chỉnh thể độc lập. Hình tượng xuyên suốt trường ca "Vạn lý Trường Sơn" của Nguyễn Hữu Quý là con đường huyền thoại. Đó là con đường :
Gọi tên năm tháng bão bùng
gọi thời xẻ núi, gọi vùng không dân
gọi về những cuộc hành quân
đá già in lõm dấu chân triệu người...
Kẻ thù đã giội xuống Trường Sơn hơn bốn triệu tấn bom, rải thảm chất độc da cam và đốt trụi hàng trăm khu rừng. Nhưng chúng không sao tiêu diệt được con đường. Để giữ sự sống cho con đường, đã có hơn 20 000 người lính nằm lại Trường Sơn. Vì thế gắn liền với hình tượng con đường Trường Sơn là hình tượng người lính. Trong bản trường ca này, Nguyễn Hữu Quý không phác hoạ chân dung một người lính cụ thể nào. Đây là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Bởi theo anh, đa phần trong số họ là những người lính vô danh :
làm chiến sĩ họ lẫn vào chiến sĩ
làm nhân dân họ lẫn vào nhân dân
mở đường trận họ lẫn vào đất đá
lẫn vào mây vào gió vào rừng...
Công việc nặng nhọc họ phải gánh vác, khó khăn vất vả họ từng chịu đựng đều hết sức âm thầm, lặng lẽ :
Tiểu đoàn đầu tiên gùi công văn, súng đạn
lặng lẽ đi trong ẩm ướt rừng già
và Người lính đi qua mưa dầm, nắng gắt
ai đếm được bao nhiêu cơn sốt rét
cơn lũ cắt rừng, trận hạn kiệt khô...
Họ nguyện gánh trên đôi vai Tổ Quốc
nhẫn nại bước đi trong giông bão gập ghềnh...
Đó là những câu thơ vừa cụ thể vừa khái quát, đã phần nào phác hoạ được tầm vóc lịch sử của những chiến sĩ vô danh trên tuyến đường Trường Sơn năm nào. Những người lính vô danh ấy không chỉ sống lặng lẽ, âm thầm mà chết cũng âm thầm, lặng lẽ :
ngấm sâu vào đất, chảy ngầm vào sông
xưa trận mạc giờ hư không
vẫn hồn chiến sĩ ở trong đất trời...
Thông qua hàng trăm cuộc đi tìm kiếm mộ các liệt sĩ hết sức kỳ lạ của các nhà ngoại cảm, có thể khẳng định : một thế giới tâm linh đầy bí ẩn đang tồn tại chung quanh chúng ta. Nguyễn Hữu Quý đã mạnh dạn đưa cái điều hết sức bí ẩn ấy vào trường ca của mình. Anh tin rằng :
Dưới lòng đất âm thầm, trong tầng cây nhiệt đới xanh rì
có vạn vạn cuộc đời đang ẩn hiện
Họ đi bằng gió
Họ nói bằng cây
Họ vẫn yêu nhau như Từ quy đêm đêm gọi nhau khắc khoải...
Quý thường nhắc đến những cô hồn vất vưởng :
Mười nghìn đồng đội nằm rải Trường Sơn
Mười nghìn hài cốt chưa về khói hương
Mười nghìn đơn côi nằm trong cõi vắng
Mười nghìn cô quạnh lang thang nẻo rừng...
Họ là những người :
Mong manh áo vải một thời
chưa đi qua hết cuộc đời thanh xuân
bây giờ lấy cỏ làm xanh
âm - dương hai vạt ấm lành nỗi quê...
Cho dù họ đang nằm dưới ba thước đất nhưng tình đồng đội vẫn luôn gắn bó họ lại với nhau. Đứng trước hàng nghìn ngôi mộ liệt sĩ ở nghĩa trang Trường Sơn, Nguyễn Hữu Quý đặc biệt xúc động trước hai ngôi mộ. Ngôi mộ thứ nhất là ngôi mộ có đến hai tấm bia. Đây là những tấm bia do thân nhân các liệt sĩ dựng theo lời chỉ dẫn của các "thầy cô" bói mộ hoặc của các nhà ngoại cảm. Thân nhân của hai liệt sĩ thắp hương, đặt lễ và khấn cả tên hai anh Lê Minh Công và Ngô Trọng Định. Nhà thơ băn khoăn hỏi "với trời, với đất" :
Người Quảng Trị, người Thái Bình
Dưới ba tấc đất cốt hình của ai?
Vô danh ba chục năm dài
Giờ chung một mộ khắc hai tên người!
Đúng là trường hợp hi hữu chỉ có thể xảy ra trong cái nghĩa trang mênh mông, rộng lớn này. Ngôi mộ thứ hai là ngôi mộ của một người bạn gái cùng quê, học chung lớp từ cấp I đến cấp II với Quý :
Giây phút ấy sững sờ
giây phút ấy thiêng liêng
khi bắt gặp dòng chữ ghi tên bạn:
Liệt sĩ Nguyễn Thị Liên-Hy sinh...
Tác giả nghẹn ngào :
Tôi không nói được nên lời
ngọn gió Trường Sơn nghiêng về tưởng nhớ...
Và bao nhiêu ký ức của tuổi học trò hiện về :
bàn tay bạn trát vách, đào hầm
tôi chẳng quên đâu nụ cười của bạn
giấy trắng bạn dành tôi một nửa
cứ nhường nhau chiếc nón chiều mưa...
Tác giả cố hình dung :
con đường nào tiễn bạn đi xa
trên trọng điểm vừa tròn mười tám tuổi
cái dáng nhỏ nhoi trong mịt mù lửa khói
cũng thân quen như cái dáng học trò...
Lần đầu tiên đọc những dòng này của Quý, tôi không sao cầm được nước mắt. Hình ảnh Nguyễn Thị Liên gần gũi quá! Thân thiết quá! Đau xót quá! Trong chương "Tiếng vọng" (thay cho Vĩ thanh), Nguyễn Hữu Quý đã tượng tưởng một đám cưới giữa Quý và Liên vô cùng thiêng liêng, vô cùng huyền ảo, vô cùng lãng mạn. Nàng dâu "mặc áo trăng", "bước đi bằng trăng", lễ Vu quy cũng diễn ra trong một đêm trăng vằng vặc với những giò phong lan treo đầy mái núi:
đám rước dâu kéo đi thật dài
vạn lý Trường Sơn nhấp nhô áo lính
đám rước đi qua trọng điểm
hoa chạc chìu thơm nức lòng đêm...
Theo tôi, đây là một sáng tạo khá độc đáo của tác giả. Nguyễn Hữu Quý đã sử dụng yếu tố kỳ ảo rất phù hợp để thể hiện thuyết nhân quả của đạo Phật (ở hiền gặp lành) như trong các truyện cổ tích. Và bằng cách này, Quý đã phần nào an ủi, bù đắp cho những người đã hy sinh tuổi trẻ, xướng máu của mình. Đây không chỉ là mong ước của Quý mà là mong ước chung của người dân Việt Nam.
Trong trường ca "Vạn lý Trường Sơn" còn có hai hình tượng đáng chú ý. Đó là hình tượng cây bồ đề và hình tượng người mẹ. Hình tượng cây bồ đề nằm ở phần mở đầu. Một điều hết sức lạ lùng là cây bồ đề mọc ở Nghĩa trang Trường Sơn - mọc không do ai trồng cả. Tương tuyền Đức Phật ngộ đạo dưới gốc cây bồ đề, nên cây bồ đề trở thành cây của Phật:
cây bồ đề từ lòng Phật bước ra
làm một tượng đài Trường Sơn khác.
Tượng đài tự nhiên này cũng hết sức kỳ vĩ. Tác giả đã sử dụng biện pháp cường điệu để làm tăng thêm vẻ linh thiêng, huyền bí của cây bồ đề :
toả dài trăm núi
toả rộng trăm sông
tán cây như mái nhà sinh sôi, sinh sôi, sinh sôi diệp lục...
Một chi tiết có thực, được Quý đưa vào phần mở đầu càng làm tăng thêm ý nghĩa của hình tượng cây bồ đề. Đó là chi tiết : Vị Tư lệnh Trường Sơn năm xưa đứng trước cây bồ đề, giọng nghiêm trang như đọc lệnh thông đường :
-Khi nâng cấp, tôn tạo Nghĩa trang
cây bồ đề vẫn phải được giữ nguyên vị trí.
Điều này chứng tỏ vị Tư lệnh Trường Sơn năm xưa cũng tin vào sự linh thiêng của cây bồ đề. Đây là vấn đề tâm linh cần được coi trọng. Nó hoàn toàn khác với kiểu mê tính dị đoan mù quáng. Ở phần cuối bản trường ca xuất hiện hình tượng người mẹ cũng rất có ý nghĩa. Mẹ Việt Nam đã được thơ ca, nhạc, hoạ... dựng nên những tượng đài bất tử. Đến lượt mình, Nguyễn Hữu Quý tìm cách góp thêm bức phù điêu về mẹ bằng những câu lục bát nhẹ nhàng, sâu lắng :
mẹ thương chưa hết con xa
lại che chở đứa ở nhà cút cui.
Bao nhiêu nước mắt của mẹ khi đến thăm con ở Nghĩa trang Trường Sơn đã khiến cho đá cũng phải mòn. Qua hình tượng người mẹ, nhà thơ muốn gửi đến nhân loại một thông điệp : Chiến tranh là không thể! Bởi mẹ đã có những người con ngã xuống trong chiến tranh; những ngôi nhà bị đốt cháy trong chiến tranh; những mùa màng bị sát hại trong chiến tranh; những tình yêu bị cướp đoạt trong chiến tranh...Nhà thơ lên tiếng hỏi trước triệu triệu người có lương tri trên toàn thế giới:
Nhân loại sẽ về đâu
trong những mưu toan vẩn đục ?
Như vâỵ là đã rõ: viết bản trường ca này, nhà thơ không chỉ tái hiện lại một chặng đường lich sử oanh liệt của dân tộc mà còn thể hiện khát vọng hoà bình chảy bỏng của mình. Điều này đã góp phần nâng cao, mở rộng tầm tư tưởng của bản trường ca. Tính nhân văn cũng nhờ thế mà sâu sắc hơn.
"Vạn lý Trường Sơn" là một trong những tác phẩm tâm huyết của nhà thơ Nguyễn Hữu Quý. Tuy vẫn còn đôi chỗ hơi thô vụng, một vài câu, một vài cách nói phảng phất hơi hướng của những người đi trước... nhưng những tìm tòi, thể nghiệm của anh rất đáng trân trọng. Tôi tin là bản trường ca này sẽ tìm được chỗ đứng trong lòng độc giả.
Tác giả: nhà thơ Mai Văn HoanNguồn:
http://nguyenhuuquy.vnweblogs.com/