Trang trong tổng số 1 trang (10 bài viết)
[1]

Ảnh đại diện

Hoa Xuyên Tuyết

Vũ Tông Phan tự là Hoán Phủ, hiệu là Lỗ Am, quê ở làng Lương Đường, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương (nay là huyện Bình Giang, tỉnh Hải Hưng). Ông đỗ tiến sĩ năm Bính Tuất (1826), ra làm quan với nhà Nguyễn một thời gian rồi từ quan về ngụ tại thôn Tự Tháp, phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương (nay là quận Hoàn Kiếm), Hà Nội, mở trường dạy học. Người cùng thời gọi trường của ông là "trường Tự Tháp" và gọi ông nghè Vũ Tông Phan là "ông nghè Tự Tháp".
Vũ Tông Phan còn là một thi sĩ lớn của đất Thăng Long, bạn xướng họa với Thần Siêu và Thánh Quát. Ông cũng là nhân vật số 1 trong danh sách 22 vị "hưu lão danh công' ở Hà thành. Suốt nửa thế kỷ, tiếng tăm ông nghe Tự Tháp đã vang dội khắp Bắc Hà, vọng tới tận kinh đô Huế.
Tên tuổi, thơ văn cùng tước hiệu của Vũ Tông Phan vĩnh viễn khắc trên những tấm bia đá gắn trong hậu cung đền Ngọc Sơn, trên lưng rùa đá giữa sân đền Hai Bà ở Đồng Nhân, trên tường miếu Thần Hỏa ở pôố Hàng Điếu, trong ngõ cổ Phất Lộc.
Bản "Lỗ Am di cảo thi tập" hiện có đã được đích tôn cụ Phan là Như Hành (1838 - 1921) sao chép lại từ bản thảo đầu tiên vào cuối thời Tự Đức, khoảng sau năm 1873.
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Xuyên Tuyết

Một số bài thơ trích trong "Lỗ Am di cảo thi tập":

QUÁ NINH CÔNG LŨY HOÀI CỔ

Nhược tương thử địa phân Nam Bắc,
Hà sự kinh niên động giáp bào?
Thiên tạo Hoành Sơn do vị hiểm,
Nhân vi cô lũy diệc đồ lao.
Doanh thâu để sự không di chủng,
Sát phạt dư thanh đái nộ đào.
Vũ trụ như kim quy nhất thống,
Mạc nhiên sơn thủy tự thanh cao.

(1825)

Dịch thơ:

QUA LŨY NINH CÔNG NHỚ CHUYỆN XƯA

Đất này ví thử phân Nam, Bắc
Hà cớ năm dài động kiếm dao?
Trời tạo Hoành Sơn còn chẳng hiểm,
Người xây chiến lũy tổn công lao.
Thắng, thua rốt cuộc phơi hoang mộ,
Thù hận dư âm rợn sóng đào.
Thiên hạ nay đà quy một mối
Non sông muôn thuở vẫn thanh cao.
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Xuyên Tuyết

Tái bút: Mình không biết tiếng Hán, cổ thi không rành. Nhưng mình có một người thày đáng kính là con cháu hậu duệ của ông nghè Vũ Tông Phan nên từng được Thày cho đọc những tài liệu này. Chép lên góp với Thi Viện cho vui thôi ạ. Nếu ĐLH bảo Ok thì mình lại ngồi lọc thông tin và gửi lên tiếp. :-D
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Xuyên Tuyết

NHÀN TRUNG KIỂM TRÁI

Sinh lai dữ trái định tiền duyên,
Tiền trái yêm lưu hoạn trái khiên.
Tiền trái thanh hoàn ưng hữu nhật,
Bất tri hoạn trái đáo hà niên?
(1831)

NGỒI RỖI KIỂM NỢ

Với nợ sinh ra vốn nặng duyên,
Nợ tiền dai dẳng, nợ quan - phiền!
Nợ tiền còn có ngày hoàn trả,
Cái nợ quan trường biết mấy niên?



Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 3 - 1994
và cuốn "Vũ Tông Phan với văn hóa Thăng Long - Hà Nội" - Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây - Hà Nội, 2001.
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

Hoa Xuyên Tuyết đã viết:
Tái bút: Mình không biết tiếng Hán, cổ thi không rành. Nhưng mình có một người thày đáng kính là con cháu hậu duệ của ông nghè Vũ Tông Phan nên từng được Thày cho đọc những tài liệu này. Chép lên góp với Thi Viện cho vui thôi ạ. Nếu ĐLH bảo Ok thì mình lại ngồi lọc thông tin và gửi lên tiếp. :-D
OK :D

Cho em hỏi, chị có trong tay là tập thơ trên hay là gì ạ ? Trong đó có bản chữ Hán không ạ ?

Một câu nữa, có phải thày chị là GS. Vũ Đình Hoè không ạ ?

PS: chị cứ đưa lên rồi em sẽ chuyển vào đây: http://www.thivien.net/vi...ID=fzCbnitCmoMjq_aSI076ow
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Xuyên Tuyết

Hi hi

Cụ Hòe là phụ thân của Thày giáo chị :-)

Tóm tắt di cảo Thơ Văn của Vũ Tông Phan:
1. Tô Khuê tùy bút tập - ký hiệu a.1968, thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm
2. Lỗ Am di cảo thi tập - cụ trưởng tộc Vũ Đình Hòe đang giữ
3. Kiếm hồ thập vịnh - ký hiệu A.309, thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm
4. Giang đình thập nhị vịnh - ký hiệu VHv.654, thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm
5. Thăng Long hoài cổ thập tứ thủ - ký hiệu A.1666, thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm
6. Tự Tháp Vũ tiên sinh thi tập - xem cuốn Ngoại truyền kỳ lục - ký hiệu VHv.12, thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm

Ngoài ra còn văn bia, trướng, đối, một số bài thơ được tuyển chép trong các tuyển thơ văn như
Danh công biểu tuyển (A. 582), Danh nhân thi tập (VHv.145/1-2), Chư gia thi văn tuyển (A.375), Đại nam văn tập (A.317) lưu giữ tại thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Xuyên Tuyết

Lỗ Am di cảo thi tập

Bài thơ

SƠ THU CẢM HOÀI

Hồi đầu tam thập bát si linh,
Tự tiếu phù danh ngộ bán sinh.
Sĩ cận thập niên nhưng chuyết lậu, (Em sửa những->nhưng - ĐLH)
Bệnh quy ngũ tải thượng phiêu linh
Phùng nhân khủng nhạ vô đê ẩn,
Đối khách han minh bất ngữ tình.
Tạc dạ thu phong thôi lãn mộng,
Hiểu liêm độc tọa bội tâm kinh.
(1838)


SUY TƯ ĐẦU THU

Ngu si thấm thoắt đà ba tám,
Tự trách: Phù danh lỡ nửa đời.
Quan ở mươi năm còn kém cỏi,
Bệnh về dăm Tết vẫn trôi xuôi.
Gặp người những ngại ơn sâu nặng,
Tiếp khách khôn bày ý nghẹn lời.
Đêm trước heo may xua mộng vỡ,
Sớm nay ngồi ngẫm dạ bồi hồi.
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Xuyên Tuyết

Xin lỗi, chị đánh sai...
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Vanachi

初秋感懷
迴頭三十八癡齡
自笑浮名誤半生
士近十年仍拙漏
病歸五載尚漂零
逢人恐惹無

Bài cuối em đang chuyển dở, phải về ăn cơm đã, tối em làm tiếp :-)
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Hoa Xuyên Tuyết

TIỀN ĐƯỜNG NGOẠN NGUYỆT

Hiên không kỷ tĩnh nguyệt xà tâm,
Hồ ảnh thiên quang nhất sắc tâm
Vạn hộc ngân châu sư thủy diện,
Nhất điều bích luyện phách ba tâm.
Trúc li phong phất thanh thanh tế,
Thụ ngạn sương hy vọng vọng thâm.
Hà xứ thiền chung tam ngũ khấu,
Lệnh nhân thanh sảng lãnh trần khâm.
(1831)


NHÀ NGOÀI NGẮM TRĂNG

Hàng hiên tịch mịch ánh trăng nghiêng,
Trời nước âm u một ảnh hình
Mặt sóng như gieo ngàn hạt ngọc,
Lòng hồ chia nửa giải tơ xanh.
Lao xao rặng trúc, hương thoang thoảng,
Thăm thẳm bờ cây, sương mỏng manh.
Đâu đó chuông chùa ba - bốn tiếng,
Nhủ người thanh thản nhạt đua tranh.
"Xin anh đừng hỏi vì sao
Tên anh em để lẫn vào trong thơ..."
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 1 trang (10 bài viết)
[1]