Thơ thành viên » dangvanhoan » Trang thơ cá nhân » Việt Nam, tích sử bốn nghìn năm
Sáu năm ngắn ngủi giữ ngôi,
Ngô Quyền tạ thế, rối bời lòng dân:
Nước ta: Mười hai sứ quân;
Tập đoàn phong kiến chia phần diệt nhau.
Bắc triều nào có khác đâu?
“Ngũ đại thập quốc” (1) đối đầu phân tranh...
Đến khi Nhà Tống tung hoành,
Giang sơn một mối, đã giành giật xong;
Nước ta- Dân cũng thoả lòng-
Bởi Đinh Bộ Lĩnh chiến công huy hoàng:
Dẹp loạn, thống nhất giang san,
Lên ngôi hoàng đế, chấn an dân tình;
Đô Hoa Lư ở Ninh Bình;
Nước Đại Cồ Việt quang vinh vững vàng(2)
Mười hai năm được bình an;
Thay cha bị hại, Đinh Toàn nối ngôi;
Vẫn đang ở tuổi ăn chơi!
Dương Thị thái hậu lựa lời khuyên con;
Chọn người lo việc nước non;
Lê Hoàn, tài đức vẹn tròn, đảm đang(3).
Tống vương biết tin nước Nam
Mất Đinh Bộ Lĩnh, liền bàn khởi binh...
Dân ta không sợ hy sinh;
Chỉ e tuổi nhỏ, vua Đinh dại khờ...
Đồng lòng; “vạn tuế!” tung hô,
Áo bào, Dương hâụ khoác cho Lê Hoàn.
***
Nhà Tống, binh mã sẵn sàng;
Viết thư, ngạo mạn, dụ hàng vua ta.
Lê Hoàn mở thư xem qua,
Giận quân cướp nước điêu toa, phỉnh phờ;
Gắng kìm mình đợi thời cơ
Sai người viết biểu, giả vờ xuống thang;
Quân ta tranh thủ thời gian
Chuẩn bị kháng chiến, đập tan mộng cuồng.
Vốn khao khát mộng bá vương,
Quân Tống- Thuỷ bộ- hai đường kéo sang(4)
Hung hăng, thuyền chiến một đoàn,
Lưu Trừng hướng Bạch Đằng giang, tiến vào;
- Vẫn còn nhớ chuyện Hoằng Thao;
Lần này, thuyền nhẹ, lẽ nào không hơn?-
Già đời thuỷ chiến, chưa khôn;
Lưu Trừng cứ tưởng xơi ngon chuyến này...
Quân ta ẩn hiện, đó đây,
Bất ngờ đánh trả, diệt bầy sói lang;
Vờ thua, giăng bẫy, đón đàng,
Hai lần quyết chiến đánh tan giặc thù...
Thuỷ binh giặc bị loại trừ;
Bạch Đằng giang lại nghìn thu vang rền.
***
Bộ binh giặc chậm như sên;
Toàn Hưng, Nhân Bảo làm nên trò gì?
E dè từng bước chân đi,
Qua Lạng Sơn, chúng ở lỳ Chi Lăng(5)
Bảy mươi ngày cứ chờ trông
Ngóng xem quân thuỷ tiến công thế nào?
Tịt mù, chưa biết tính sao;
Chần chừ, chẳng dám tiến vào vùng sâu.
Quân ta chờ đợi đã lâu;
Lập mưu để chúng đưa đầu “vào hang”(6)
(Nơi ta mai phục sẵn sàng);
Ải Chi Lăng, xác ngoại bang chất chồng;
Dính đao, Bảo cũng thân vong;
Toàn Hưng chẳng kém: Long đong chạy dài...
Tin thua, sét đánh bên tai;
Tống vương kinh hãi, mất oai, ngậm hờn;
Chiếu lui binh vội phê luôn...
Gọi tướng bại trận trút cơn lôi đình:
Toàn Hưng, Giả Thực: cực hình,
Nhiều tên: Giáng chức (7), oan tình, dám kêu?
Đòn đau, nhục nhã, Tống triều
Phải đành nuốt hận, càng nhiều trái ngang.
Quân ta thắng lợi, khải hoàn;
Non sông trở lại bình an, tự cường.
(1)- “Ngũ đại thập quốc” tức thời “Năm đời mười nước” xâu xé lẫn nhau
(2)- Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế(Gọi là Đinh Tiên Hoàng) đổi tên nước là Đại Cồ Việt, lập đô ở Hoa Lư (Ninh Bình)
(3)- Năm 979, Đinh Bộ Lĩnh và con cả là Đinh Liễn bị ám hại, chú bé 6 tuổi, con thứ của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn nối ngôi;
mẹ là Dương Vân Nga được tôn là Hoàng thái hậu, Thập đại tướng quân Lê Hoàn đứng ra giúp vua cáng đáng việc nước
(4)- Tháng 3 năm Tân Tỵ (981), quân Tống từ hai ngả thuỷ, bộ rầm rộ kéo sang xâm lược nước ta
(5)- Hầu Nhân Bảo giữ tiền quân, Tôn Toàn Hưng giữ trung quân tiến theo đường bộ vào Lạng Sơn đến đóng binh ở miền Chi Lăng
(6)- Quân ta cho người trá hàng, tung tin là binh sỹ Việt sợ quân Tống đến đã bỏ trốn nhiều, quân Tống đi đường thuỷ đang thắng to, sắp tiến về kinh đô... để Hầu Nhân Bảo yên tâm tiến quân và rơi vào bẫy của ta
(7)- Giả Thực bị bêu đầu ở chợ Ung Châu, Toàn Hưng bị giam ngục, rồi chết chém, Khâm Tộ và một số tên tướng khác bị giáng chức.