Đại tá, nhà thơ Trọng Khoát sinh ra trong một gia đình truyền thống cách mạng ở Nam Đàn, Nghệ An. Thuở nhỏ, ông học trường Tây, mười tám tuổi đã xung phong đi bộ đội. Năm 1950, ông vào học Sỹ quan Lục quân khoá 6 Trung Bộ. Tốt nghiệp ra trường được phân công làm cán bộ quân báo của Bộ tổng tham mưu, đi vào vùng địch hậu.
Năm 1953, là chiến sỹ vô tuyến điện tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Tại đây, ông đã có một án kỷ luật nhớ đời. Số là một lần, ông đã dịch sai một bức điện mật dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Địch giội bom xuống Nà Sản, ta không kịp trở tay, nên thương vong rất nhiều. Sau sai sót ấy, Nguyễn Trọng Khoát phải về nhận án kỷ luật.
Bản thân ông trong trận ném bom ấy cũng bị thương nặng ở đầu, bị kênh hộp sọ, lòi cả xương sọ ra. Thế nhưng, tuổi trẻ với sức sống mãnh liệt đã cứu ông thoát khỏi cái chết. Do bị thương nên án kỷ luật coi như được xoá, nhưng ông không được hưởng chế độ thương binh do phạm sai lầm nghiêm trọng trong công tác. Sau đó, ông được cấp trên cho đi học tập để rèn luyện thêm về tư tưởng và bản lĩnh chiến đấu.
Năm 1954, ông về tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Cuối năm 1954, ông được biệt phái đi làm công tác ở nông thôn 2 năm để tiếp tục rèn luyện và thử thách, như làm công tác cải cách ruộng đất ở Thái Nguyên, chống đói ở Bắc Giang, phát động giảm tô ở Vĩnh Phúc.
Năm 1964, ông được về phụ trách Chủ nhiệm giáo viên văn hoá, trợ lý chính trị tại Trường Sỹ quan Lục quân I. Thời gian này, ông tốt nghiệp thủ khoa một lớp tại chức tiếng Nga. Lúc này, tên tuổi Trọng Khoát đã được biết đến với vai trò là một nhà thơ với những bài thơ chống Pháp, chống Mỹ khá nổi in trên báo chí.
Tháng 5/1965, Nguyễn Trọng Khoát được lệnh tham gia Binh đoàn Trường Sơn hoạt động ở tuyến Nam Lào với vai trò là trợ lý văn hoá văn nghệ. Ngay cả lý do vào Trường Sơn cũng thật hồn nhiên và khác thường! Do đỗ thủ khoa lớp tiếng Nga, Trọng Khoát đề đạt nguyện vọng được đi nước ngoài học tập. Ngay sau đó, đơn vị cho ông sang Lào tham gia tuyến đường Trường Sơn.
Trưởng ban cán bộ nhà trường chỉ huy giải thích: "Lào cũng là nước ngoài, đồng chí vừa thoả mãn nguyện vọng được đi nước ngoài, vừa được tham gia tuyến đường Trường Sơn!". Một lần nữa, Trọng Khoát lại vác ba lô lên vai, hồn nhiên bước vào cuộc chiến chống Mỹ, tham gia chiến trường ác liệt nhất ở tuyến Nam Lào.
Thời gian này, đường Trường Sơn bắt đầu có xe cơ giới. Tuyến chi viện chiến lược chuyển sang phía Tây trên đất bạn Lào. Khi đó bộ đội vẫn còn bị ám ảnh bởi phương châm hoạt động: "Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng", cho nên đời sống văn hoá gần như không có gì. Khi đó khái niệm công tác văn hoá chỉ là dạy văn hoá.
Nguyễn Trong Khoát đã vào Trường Sơn và chuyển hướng vừa dạy văn hoá vừa đưa văn hoá văn nghệ vào đời sống tinh thần của bộ đội. Lúc này Trường Sơn đang là mùa lũ lớn của thượng nguồn sông Xê Băng Hiên, Xê Kông nên bộ đội gặp trận đói lịch sử. Bộ Tư lệnh Trường Sơn vừa được bổ sung 5 đại đội pháo cao xạ 12 ly 7.
Trước tình hình đó, Chính uỷ Vũ Xuân Chiêm nói: "Văn nghệ bây giờ chưa cần, pháo cũng chưa cần" và ông giao cho Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Trọng Khoát cùng Chính trị viên Lê Hồ chỉ huy 5 đại đội pháo cao xạ mỗi người gùi 50 kg lương thực và nhu yếu phẩm, thuốc men để đi cứu đói cho các công trường. 5 đại đội đi đến đâu, mang lương thực, nhu yếu phẩm cứu đói cho thanh niên xung phong ở các công trường và không quên cất cao lời ca tiếng hát “át tiếng bom, át cái đói rét”. Nhưng đây cũng chính là giai đoạn ám ảnh trong ký ức của Trọng Khoát nhiều nhất về sự gian khổ của lính Trường Sơn.
Đi vào sâu Trường Sơn, đến những đại đội thanh niên xung phong làm đường phần đông là con gái. Họ bị đói giữa rừng sâu quá lâu, nhu yếu phẩm cho con gái lại không có, cái đói và sốt rét rừng Trường Sơn đã làm cho nhiều chị em ốm o, gầy mòn, rụng hết tóc, không có hành kinh, sốt la liệt trong rừng. Có những anh nuôi thương con gái đói quá, mò vào rừng đi đào củ mài, sập bẫy chông của dân bản, suýt chết. --PageBreak--
5 đại đội pháo cao xạ do Trọng Khoát chỉ huy đã tiếp tế đủ 15 tấn hàng lương thực nhu yếu phẩm cho 3 công trường để cứu đói và chữa bệnh tật. Trên đường rút quân ra, 5 đại đội do ông chỉ huy được lệnh chặt cây làm đường cho xe vượt qua các bãi lầy thay cho ý tưởng làm đường "sàn đạo" cho xe đi qua 4 mùa vì gặp mưa lầy nên không thực hiện được.
Thời điểm đó, rải rác khắp dọc tuyến đường từ Pha Nốp vào Xeng Phan là đoạn đường lầy 45km có các tổ xe "Ngọn đèn xanh" của Tổng cục Hậu cần từ Bắc đi thẳng vào Nam Trường Sơn tiếp tế cho Khu 5 thì mắc lũ. Lũ kéo dài gần 3 tuần lễ. Đoàn xe bị chia cắt.
Ông còn nhớ mãi một người lái xe tên Toàn trông 1 cái xe chất đầy 2,5 tấn gạo. Do bị lũ phải dừng lại giữa rừng. Bầy khỉ luôn tấn công, cướp gạo, nên anh phải canh chừng ngày đêm. Khẩu phần cá nhân anh đã ăn hết sau những ngày đợi lũ rút. Đói quá, anh đi đào củ mài trong rừng sâu. Anh đã bị ngất bên hố khoai mài, được bà con dân bản phát hiện cứu sống. Dù có phải chết đói, những người lính lái xe chở đầy những xe gạo cho tiền tuyến quyết không đụng chạm đến một hạt gạo của chiến trường.
Đường cho xe qua bãi lầy dự kiến làm trong 20 ngày nhưng chỉ mới 12 ngày đã hoàn thành. 5 đại đội pháo rút quân ra. Trên đường hành quân một đồng chí đã bị bom hy sinh. Lần đó, Trọng Khoát cùng Đại đội trưởng Phan Văn Nhật suýt bị truy tố trước toà án quân sự vì làm sai lệnh, dẫn đến thương vong lính. Song, xét những công trạng đã đạt được, cả Trọng Khoát và Đại đội trưởng Phan Văn Nhật được xoá án.
Tháng 12/1965, đồng chí Hồng Kỳ vào nhận nhiệm vụ Chủ nhiệm Chính trị của Mặt trận 559. Trọng Khoát được giao nhiệm vụ phát động phong trào văn nghệ quần chúng và lập tờ thông tin thi đua "Hoa thắm Trường Sơn" chuyên viết về gương thi đua. Ông vừa là thư ký toà soạn kiêm biên tập, kiêm trình bày, minh hoạ (hiện tờ thông tin vẫn còn được lưu giữ ở bảo tàng Trường Sơn).
Cuối năm 1966, Trọng Khoát nhận nhiệm vụ đi vào Cực Nam của tuyến C4 - Biên giới Đông Campuchia cùng với đồng chí Hồng Kỳ. Ở mặt trận phía Nam, bộ đội không còn thiếu đói nữa nhưng sốt rét luôn hoành hành.
Trên đường Trường Sơn có những nấm mộ bộ đội do mối đùn lên. Đất Campuchia không có thủ tục chôn người. Anh em bị sốt rét hy sinh, phải đưa xuống thuyền mảng thả trôi sông xuống phía dưới mới được chôn cất. Bộ đội ta hồi ấy bị sốt rét ác tính, trước khi chết chỉ có một nguyện vọng là được chôn cất ở Hạ Lào.
Thời điểm này, có một đại đội xe con của Tiểu đoàn 61 chở gạo từ Bắc Campuchia ra Hạ Lào. Dọc đường đơn vị bị địch đánh trúng đội hình cháy 6 xe và hy sinh 12 đồng chí. Để tiếp tục cho 8 xe còn lại hành quân, đồng chí Chính trị viên đã phải tạm dấp lá mắc màn bạt giữa rừng tránh ruồi nhặng bâu quanh thi thể 12 anh em đã hy sinh nhưng chưa có điều kiện mai táng. Đến đêm, anh em mới quay trở lại nơi 12 người lính còn nằm dưới các đống lá ở gốc cây và cho mai táng giữa đêm khuya để tránh bị lộ. Sau này, không ai còn nhớ chính xác địa điểm mai táng để tìm được mộ phần, đưa hài cốt anh em về quê hương.
Binh chủng văn hoá văn nghệ trong thời gian tham gia tuyến đường Trường Sơn cũng có nhiều đồng chí bị hy sinh. Trọng Khoát đã có bài thơ xúc động viết về người đồng đội Ngọc Huệ hy sinh ở trọng điểm Phú Khao tháng 12/1969 trong lúc đang làm nhiệm vụ: Số phận của bài thơ này cũng rất kỳ lạ, ông đã viết nó và bỏ vào lọ thuỷ tinh cùng tên và địa chỉ liệt sỹ.
Tháng 6/1975, đoàn quy tập không tìm được hài cốt Huệ vì bom đạn đánh tan tành khu vực nghĩa trang. 20 năm sau, năm 1995, nhân một cuộc họp mặt, một chiến sỹ công binh ngày trước ở Trường Sơn đã nhặt được bài thơ này trên đường ra Bắc qua Phú Khao và mang trả lại cho chính tác giả trong nước mắt nghẹn ngào: "Nằm yên em nhé, ngủ ngon/ Để cho đầu cáng anh còn trở vai/ Đèo thì cao, dốc thì dài/ Vai đòn anh nghiến, phồng, chai, lại phồng/ Đau hơn là nỗi đau lòng/ Ghìm sâu tiếng nấc khỏi rung cánh đòn!/ Nằm yên em nhé ngủ ngon/ Máy bay giặc lượn anh còn nguỵ trang/ Trời khô, đường nắng chang chang/ Võng thưa, máu giọt nóng bàn chân anh/ Lối vào trạm xá loanh quanh/ Em ơi đừng vĩnh biệt anh dọc đường/ Lời thương đồng đội, lời thương/ Những ai nằm lại chiến trường hôm nay".
Sau chiến tranh, Trọng Khoát về công tác ở Ban Ký sự lịch sử của Phòng sử - Ban Khoa học Tổng cục Hậu cần. Trọng Khoát cho ra đời 3 tập thơ, một tập văn xuôi và 3 tập ký sự đầy đặn. Nhưng nổi bật nhất trong những sáng tác của ông có lẽ phải kể đến tập thơ "Thơ viết về Trường Sơn" và tập văn xuôi: "Kể chuyện 12 con giáp Trường Sơn". Thơ Trọng Khoát hóm hỉnh, lạc quan, nhưng có những bài đọc lên ứa nước mắt: "Trận địa chiều nay/ Pháo ngẩng cao đầu yên lặng/ Đạn đã lên nòng chờ lệnh bắn/ Có mũi dao nào cắm giữa trái tim ta/ Lê Xuân Kình đã hy sinh trên cáng/ Dẫu đường về trạm phẫu không xa/ Đời bộ đội tôi ít khi oà khóc/ Như chiều nay, nhìn tờ giấy thư anh/ Viết trên cáng từ máu loang tay ướt/ "Hãy trả thù cho tôi", chữ ký "Lê Kình"/ Anh lấy máu từ vết thương trên ngực/ Tấm bản đồ trận địa lót sau lưng/ Đồng đội cáng anh đâu biết được/ Có phút giây quằn quại trên đường...".
Cũng chính nhà thơ Phạm Tiến Duật đã viết: "Tôi phải thú nhận rằng, nếu nói cho rõ về tuyến đường 559 thì Trọng Khoát mạnh hơn tôi nhiều. Tôi đã có hàng chục năm lăn lộn ở mặt trận và ghi nhận rằng, từ tướng lĩnh đến chiến sỹ đều thuộc thơ Trọng Khoát. Thơ anh đằm thắm, tinh tế và đặc biệt là sự hóm hỉnh. Tôi chỉ muốn nói với bạn đọc rằng từng dòng, từng chữ trong tập thơ này, nhà thơ Trọng Khoát đã viết không chỉ bằng mực mà còn bằng cả các trận bom, trận sốt rét dữ dằn của biết bao năm gian khổ. Hãy đừng quên Trường Sơn và vì thế, đừng bao giờ quên nhà thơ Trọng Khoát, nhà thơ đầy tâm huyết với tuyến đường Hồ Chí Minh"…
Đại tá, nhà thơ Trọng Khoát sinh ra trong một gia đình truyền thống cách mạng ở Nam Đàn, Nghệ An. Thuở nhỏ, ông học trường Tây, mười tám tuổi đã xung phong đi bộ đội. Năm 1950, ông vào học Sỹ quan Lục quân khoá 6 Trung Bộ. Tốt nghiệp ra trường được phân công làm cán bộ quân báo của Bộ tổng tham mưu, đi vào vùng địch hậu.
Năm 1953, là chiến sỹ vô tuyến điện tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ. Tại đây, ông đã có một án kỷ luật nhớ đời. Số là một lần, ông đã dịch sai một bức điện mật dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Địch giội bom xuống Nà Sản, ta không kịp trở tay, nên thương vong rất nhiều. Sau sai sót ấy, Nguyễn Trọng Khoát phải về nhận án kỷ luật.
Bản thân ông trong trận ném bom ấy cũng bị thương nặng ở đầu, bị kênh hộp sọ, lòi cả xương sọ ra. Thế nhưng, tuổi trẻ với sức sống mãnh liệt đã…