844.31
Nước: Việt Nam (Hiện đại)
12 bài thơ
3 bình luận
21 người thích
Tạo ngày 24/06/2005 19:08 bởi Vanachi, đã sửa 1 lần, lần cuối ngày 31/03/2007 19:54 bởi Vanachi
Trịnh Công Sơn (28/2/1939 – 1/4/2001) được coi là một trong những nhạc sĩ lớn của âm nhạc đại chúng, tân nhạc Việt Nam với nhiều tác phẩm rất phổ biến. Hiện nay chưa có thống kê chính xác về số tác phẩm để lại của ông (ước đoán con số không dưới 600 ca khúc). Tuy nhiên số ca khúc của ông được biết đến rộng rãi là 236 ca khúc (cả lời và nhạc). Nhạc của Trịnh Công Sơn được nhiều ca sĩ thể hiện, nhưng thành công hơn cả là Khánh Ly và Hồng Nhung. Ngoài ra, ông còn được xem là một nhà thơ, một hoạ sĩ, một ca sĩ và một diễn viên không chuyên.

Ông quê ở làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Lúc nhỏ ông theo học các trường Lycée Français và Providence ở Huế, sau vào Sài Gòn theo học triết học trường Tây Lycée Jean Jacques Rousseau Sài Gòn và tốt nghiệp tú tài tại…

 

 

 

Ảnh đại diện

Có một nhà thơ tên là Trịnh Công Sơn

Người ta vẫn gọi Trịnh Công Sơn là nhạc sĩ chứ chưa thấy ai gọi anh là nhà thơ, dù anh cũng đã in dăm ba bài thơ lẻ. Cũng có người gọi anh là “người thơ ca” hay “người hát thơ”, nghĩa là, anh là người tác hợp giữa thơ và nhạc. Nhưng với tư cách là một nhà thơ, tôi đã khảo sát ca từ của Trịnh Công Sơn, và tôi dám khẳng định rằng, anh chính là một nhà thơ đích thực.

Cho dù khi sáng tác ca khúc, Trịnh Công Sơn có thể viết lời và nhạc cùng một lúc, hoặc có đoạn lời viết sau khi đã có nhạc, hay trước khi “phổ nhạc” thì mỗi lời ca của anh đều là những bài thơ hoàn chỉnh kể cả về ý, tứ, cấu trúc, ngôn từ và cảm xúc. Mà Trịnh Công Sơn không phải là một nhà thơ bình thường, anh là nhà thơ rất độc đáo ôm chứa tư tưởng nhân sinh và thời cuộc với một thi pháp khá riêng biệt trong thơ Việt.

Trịnh Công Sơn rất nhuần nhuyễn trong các thể thơ truyền thống như lục bát, đồng dao. Ngay từ lần nghe đầu tiên ca khúc Ở trọ, tôi đã phát hiện ra đấy là một bài thơ lục bát rất tài hoa. Từ cái chuyện ở trọ bình thường trong đời, anh đã đẩy liên tưởng tới cái “cõi tạm” chốn trần gian trong triết lý của Đạo Phật với một cách nói thoải mái, thông minh và hóm. Anh nhìn thấy con chim ở trọ trên cành cây, con cá ở trọ dưới nước, cơn gió ở trọ giữa đất trời, rồi đẩy tới một khái quát bất ngờ:

Trăm năm ở đậu ngàn năm
Đêm tối ở trọ chung quanh nỗi buồn
Có những liên tưởng còn bất ngờ hơn khi nói tới vẻ đẹp ở trọ trong thân thể, hay tâm hồn của người nữ:
Môi xinh ở đậu người xinh
Đi đứng ở trọ đôi chân Thuý Kiều
Vì thế mà có câu:
Xin cho về trọ gần nhau
Mai kia dù có ra sao cũng đành
Và khi con người đã ở trọ vào nhau bằng tình yêu thì dù có phải xa rời cõi tạm, vẫn mãi mãi khăng khít cùng nhau:
Tim em người trọ là tôi
Mai kia về chốn xa xôi cũng gần
Nhiều bài thơ phỏng theo nhịp đồng dao (bốn chữ) khá thành công nhờ cách lập tứ và chọn từ như Em đi qua chiều, Cũng sẽ chìm trôi (Nhật Nguyệt trên cao - Ta ngồi dưới thấp), nhưng có lẽ Ngụ ngôn mùa đông mới là một bài thơ bốn chữ gây ấn tượng khó phai mờ trong lòng người đọc. Bài thơ nói về “Một người Việt Nam - Đi ra dòng sông - Nhớ về cội nguồn... Đi lên đồi non - Nhớ về cội nguồn” thật tươi đẹp, thật máu thịt, rồi bỗng:
Một ngày mùa đông
Trên con đường mòn
Một chiếc xe tang
Trái mìn nổ chậm
Người chết hai lần
Thịt da nát tan...
Người Việt ấy “trái mìn nổ chậm” của chiến tranh. Cái tứ thơ này không chỉ chia xẻ với cái chết đau thương tang tóc của con người mà còn có sức mạnh tố cáo chiến tranh thật sâu sắc:
Súng từ thị thành
Súng từ ruộng làng
Nổ xé da non
Phố chợ thật buồn
Cuộn giây gai chắn
Chắc mẹ hiền lành
Rồi cũng tủi thân
Nhịp thơ năm chữ trong thơ Trịnh Công Sơn cũng xuất hiện không ít, và lặng lẽ tuôn chảy trong veo buồn thương, ngơ ngác. Khi thì khao khát hồn nhiên: “Môi nào hãy còn thơm - Cho ta phơi cuộc tình - Tóc nào hãy còn xanh - Cho ta chút hồn nhiên”, khi thì hoang vắng, lạnh câm: “Như đồng lúa gặt xong - Như rừng núi bỏ hoang - Người về soi bóng mình - Giữa tường trắng lặng câm”, khi thì tuyệt vọng ngậm ngùi: “Không còn, không còn ai - Ta trôi trong cuộc đời - Không chờ, không chờ ai” (Ru ta ngậm ngùi), và có lúc đầy mộng mơ khao khát giữa ưu phiền: “Tôi con chim thanh bình - Mơ được sống hồn nhiên - Như hoa trên đồng xanh - Một sớm kia rất hồng” (Như chim ưu phiền). Nhịp thơ năm chữ vốn rất phổ biến trong đối đáp dân gian, nhưng với Trịnh Công Sơn, nó trở nên lồng lộng, thênh thang và quý phái:
Người ngỡ đã xa xăm
Bỗng về quá thênh thang
Ôi áo xưa lồng lộng
Đã xô dạt trời chiều
(Tình nhớ)
Cùng với những ý thơ bất ngờ đến từ vô thức:
Trăng muôn đời thiếu nợ
Mà sông không nhớ ra
Hoặc:
Cây trưa thu bóng dài
Và tôi thu bóng tôi
Tôi thu tôi bé lại
Làm mưa tan giữa trời...
(Biết đâu nguồn cội)
Ít thấy nhịp thơ sáu chữ ở Trịnh Công Sơn, nhưng không phải là không có. Câu thơ sáu chữ xuất hiện đan xen trong nhiều bài thơ của anh thường tạo được hiệu quả lạ, như một dấu nhấn của cảm xúc và ý tưởng. Ví dụ như trong bài Nhìn những mùa thu đi, sau mỗi câu năm chữ là câu sáu chữ khá hay: “... Em nghe rầu lên trong nắng... Nghe tên mình vào quên lãng... Tay trơn buồn ôm nuối tiếc”.

Bài Ru em là một bài thơ lục ngôn từ đầu đến cuối:
Ru em ngủ những đêm khuya
Ru em ngủ những âm u
Ru em cùng những u mê
Ru em dù đã chia xa...
Nhân nói đến thơ lục ngôn; bỗng nhớ đến một bài thơ nhịp 3 hết sức đặc biệt của Trịnh Công Sơn. Đó là bài Mưa hồng:
Trời ươm nắng
Cho mây hồng
Mây qua mau
Em nghiêng sầu
Còn mưa xuống
Như hôm nào
Em đến thăm
Mây âm thầm
Mang gió lên...
Điều đó nói lên sự đa dạng và tài hoa của Trịnh Công Sơn khi sử dụng thi điệu, bởi thơ nhịp 3 thường tươi vui nhí nhảnh, mà ở đây lại tả cái tâm trạng thương nhớ xa xăm: “Người ngồi xuống/Xin mưa đầy/Trên hai tay/Cơn đau dài”...

Nhịp thơ thất ngôn là một sở trường của Trịnh Công Sơn. Dường như anh thẩm thấu Đường thi, nhưng hơi thở thì đã khác. Những câu thơ bảy chữ vào bài hát của anh rất tự nhiên. Nhiều bài thơ (bài hát) đã mở đầu bằng câu thơ bảy chữ thật nhẹ nhàng như chẳng có một cố ý nào. Có thể dẫn ra nhiều những trường hợp như vậy: “Một đêm bước chân về gác nhỏ”, “Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi”, “Trên đời người trổ nhánh hoang vu”, “Người đi quanh thân thế của người”, “Vẫn thấy bên đời còn có em”...

Cũng là thơ thất ngôn, nhưng cách gieo nhiều vần bằng liên tiếp theo cảm hứng âm nhạc, đã khiến cho thơ anh không bị gò ép vào khuôn thước cổ thi, mà thoát ra, phong quang và mềm mại hẳn lên. Có những đoạn thơ chỉ gieo toàn vần bằng:
Màu nắng hay là màu mắt em
Mùa thu mưa bay cho tay mềm
Chiều nghiêng nghiêng bóng nắng qua thềm
Rồi có hôm nào mây bay lên
Lùa nắng cho buồn vào tóc em
Bàn tay xôn xao đón ưu phiền
Ngày xưa sao lá thu không vàng
Và nắng chưa vào trong mắt em
Cũng có khi, thơ thất ngôn của anh được gieo vần trắc:
Em đi biền biệt muôn trùng quá
Từng cơn gió và từng cơn gió
Em đi gió lạnh bến xa bờ
Từng nỗi nhớ trùng trùng nỗi nhớ
Lại có khi thơ thất ngôn được tổ chức theo từng khổ ba câu với những hình ảnh thật đẹp, thật lạ như: “lòng như khăn mới thêu”, “lòng như nắng qua đèo”, chỉ đọc một lần là bâng khuâng xao xuyến mãi:
Mười năm xưa đứng bên bờ dậu
Đường xanh hoa muối bay rì rào
Có người lòng như khăn mới thêu
Mười năm sau áo bay đường chiều
Bàn chân trong phố xa lạ nhiều
Có người lòng như nắng qua đèo
Các thi ảnh vừa tươi mới vừa lạ lùng cứ nối tiếp nhau hiện lên trong thơ Trịnh Công Sơn để đẩy tứ thơ đến tận cùng bất ngờ: “Có một dòng sông đã qua đời”. Tại sao dòng sông lại qua đời? Phải chăng, đấy chính là dòng sông biểu tượng cho tình yêu đã cạn!

Trịnh Công Sơn thuộc thế hệ những người mê đắm Thơ Mới, và thể thơ tám chữ mà các thi sĩ của phong trào Thơ Mới đã có công cải hoá và Việt hoá từ thơ Pháp có một nhịp điệu dễ mê hoặc lòng người. Trịnh Công Sơn tiếp thu nhịp điệu này, và chính âm nhạc đã thêm một lần nữa làm thơ tám chữ:
Một lần chợt nghe quê quán tôi xưa
Giọng người gọi tôi nghe (tiếng) rất nhu mì
Lòng thật bình yên mà sao buồn thế
Giật mình nhìn tôi ngồi hát bao giờ
(Bên đời hiu quạnh)
Hoặc dùng lại đúng cái nhịp Thơ Mới vẫn thường dùng, nhưng tinh thần thì đã khác:
Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông
Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em
(Tôi ơi đừng tuyệt vọng)
Một thi sĩ với rất nhiều cung bậc trong điệu nhạc tâm hồn, Trịnh Công Sơn thả sức bay lượn trong các nhịp thơ tự do đầy phóng túng. Những câu thơ dài ngắn khác nhau cứ tung tẩy trong các bài thơ tự do của anh. Khi thì triết lý: “Tình yêu như trái phá con tim mù loà”, khi thì lộng lẫy: “Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay”, khi thì trùng điệp: “Bốn mùa thay lá thay hoa thay mãi đời ta”, “Rừng núi dang tay nối liền biển xa - Ta đi, vòng tay lớn mãi để nối sơn hà”, khi thì gập ghềnh mệt mỏi: “Ngựa buông vó/ Người đi chùng chân đã bao lần/ Nửa đêm đó/ Lời ca dạ lan như ngại ngùng/ Vùng u tối/ Loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng”, và có khi nhịp điệu trôi xa như sông bỗng quay về gần gũi như mưa:
Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ
Ôi những dòng sông nhỏ
Lời hẹn thề là những cơn mưa
Dù là phóng túng trong thơ tự do, nhưng vần điệu và ý tưởng lạ và đẹp ở thơ anh giống như chiếc neo thuyền, neo vào lòng người để nó chẳng bao giờ trôi đi vô vọng.

Có lẽ Trịnh Công Sơn là nhà thơ được người ta thuộc nhiều nhất. Điều đó không lạ, bởi thơ anh luôn có sự truyền tải diệu vợi bằng âm nhạc của chính anh. Nhưng cũng có thể nói ngược lại, âm nhạc của Trịnh Công Sơn luôn được thơ nâng cánh. Trong ca từ của anh có rất nhiều những câu thơ thật hay như:
- Sống trong đời sống cần có một tấm lòng
Để làm gì em, biết không?
Để gió cuốn đi!

- Mây che trên đầu và nắng trên vai
Đôi chân ta đi sông còn ở lại
Con tinh yêu thương vô tình chợt gọi
Lại thấy trong ta hiện bóng con người

- Chiều nay em ra phố về
Thấy đời mình là những quán không
Bàn im hơi bên ghế ngồi
Ngày đi đêm tới đã vắng bóng người

- Bàn chân ai rất nhẹ
Tựa hồn những năm xưa

- Áo xưa dù nhầu cũng xin bạc đầu gọi mãi tên nhau

- Mẹ là nước chứa chan
Trôi giùm con phiền muộn
Cho đời mãi trong lành
Mẹ chìm dưới gian nan

- Hà Nội mùa thu
Cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ
Nằm kề bên nhau
Phố xưa nhà cổ mái ngói thâm nâu
...
Nhớ đến một người để nhớ mọi người...
Có một tập ca khúc thời trẻ của Trịnh Công Sơn mang tên là Kinh Việt Nam. Phải chăng, trong sâu thẳm lòng mình, anh khao khát sáng tạo ra những bài kinh cầu cho dân tộc, cho tình yêu và cho thân phận? Đây chính là bài kinh cầu bên bờ vực linh hồn cần được cứu rỗi. Những bài kinh ấy chính là những bài thơ còn lại của Trịnh Công Sơn với một niềm yêu tin “gần như là tuyệt vọng” đã vượt lên số phận chia sẻ với đương thời và hậu thế, đấy là lòng tin vào con người khởi nguồn từ dòng cảm xúc tự nhiên, vượt qua cả tôn giáo và định kiến, bởi vì hương thơm đã sẵn đốt trong hồn (chữ của Chế Lan Viên). Cũng với một lòng tin như vậy, tôi xin mạn phép đổi một chữ trong câu thơ của anh để tạm kết thúc bài viết này:

Ngày sau sỏi đá cũng cần có THƠ!


Nguyễn Trọng Tạo

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
chia cho em một đời say
một cây si/ với/ một cây bồ đề
tôi còn đâu nữa đam mê
trời chang chang nắng tôi về héo khô
54.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đắm theo ca khúc của anh

Bài thơ của TS Lê Thống Nhất sáng tác nhân kỷ niệm 13 năm ngày mất của Trịnh Công Sơn, với cảm ứng từ tên 63 ca khúc của ông.

Bạc phơ Hạ trắng tái tê
Để cho Biển nhớ gọi về tên Anh
Tình sầu nào có trôi nhanh
Tình xa xin vẫn để dành cho nhau
Tôi ru em ngủ cho mau
Tự dưng thấy - Trong nỗi đau tình cờ
Nắng thuỷ tinh cũng ngẩn ngơ
Rừng xưa đã khép tiếng tơ vẫn còn
Vết lăn trầm mãi chẳng tròn
Ướt mi chi để héo hon cho người
Biệt ly Vẫn nhớ cuộc đời
Dù rằng Xa dấu mặt trời bao năm
Khi nào Tôi sẽ đi thăm
Để người xin chớ Tưởng rằng đã quên
Ru tình mong chút nhân duyên
Một ngày như mọi ngày nên lại buồn
Này em có nhớ mưa tuôn
Cơn Mưa mùa hạ ngọn nguồn từ đâu
Người về bỗng nhớ nhịp cầu
Nối vòng tay lớn nguyện cầu cho ai
Nguyệt ca - Như tiếng thở dài
Tuổi đá buồn gửi u hoài đi theo
Quỳnh hương đưa giữa xóm nghèo
Hai mươi mùa nắng lạ vèo trôi qua
Kìa Đôi mắt nào mở ra
Cho ai được thấy Đoá hoa vô thường
Giọt nước mắt cho quê hương
Trong tim Có những con đường lá rơi
Chỉ có ta trong cuộc đời
Biển nghìn thu ở lại nơi bến nào
Bống không là Bống dưới ao
Này em có nhớ gọi chào Bống không?
Ru em từng ngón xuân nồng
Nghẹn như Lời của dòng sông thu tàn
Huyền thoại Mẹ mãi chứa chan
Sóng về đâu để non ngàn đắng cay?
Còn Ta thấy gì đêm nay?
Ai đi Như cánh vạc bay cuối chiều…
Lời thiên thu gọi phiêu diêu
Phúc Âm buồn gợi những điều trong tim
Thương một người mải đi tìm
Hoa vàng mấy độ lặng im khóc thầm
Tạ ơn thắp nén hương trầm
Đã thôi Ở trọ cõi trần rồi ư?
Cát bụi là thực hay hư
Ra đồng giữa ngọ mà như về nhà
Một lần thoáng có rồi xa
Để ai đếm - Từng ngày qua não nề
Hẹn chi Một cõi đi về
Diễm xưa nay đã yên bề sau mưa
Mang Em đến từ nghìn xưa
Mà như Cỏ xót xa đưa tháng ngày
Mình ai Lặng lẽ nơi này
Chẳng buồn theo để Níu tay nghìn trùng
Rừng xanh xanh mãi không cùng
Vườn xưa xơ xác giữa vùng xác xơ
Thương ai đã Hãy cố chờ
Vàng phai trước ngõ thẫn thờ cuối xuân
Ai ngoài cánh cửa tần ngần
Bên đời hiu quạnh những lần lệ rơi
Để gió cuốn đi cuối trời
Ru đời đi nhé! Mong đời ngủ say...

84.25
Ảnh đại diện

Tiểu sử và sự nghiệp Trịnh Công Sơn

Trong sự nghiệp âm nhạc, ông đã sáng tác trên 600 tác phẩm, phần lớn là tình ca. Nhiều ca khúc của ông có thông điệp phản chiến trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam và do đó đã chịu sự cấm đoán, hạn chế của chính quyền Việt Nam Cộng hoà, và ngay cả của chính quyền Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sau này. Nhạc của Trịnh Công Sơn được rất nhiều ca sĩ thể hiện, nhưng thành công hơn cả là Khánh Ly. Ngoài ra, ông còn được xem là một nhà thơ, một hoạ sĩ dù không chuyên.

Tiểu sử

Ông sáng tác bài Sương đêmSao chiều vào năm 17 tuổi, nhưng tác phẩm đầu tiên của ông là Ướt mi, được xuất bản An Phú in năm 1959. Từ đó tên tuổi của ông được nhiều người biết đến. Trong những năm sau đó, nhạc của ông được phổ biến và được nhiều ca sĩ trình diễn, đặc biệt là Khánh Ly. Vì lời lẽ trong nhiều bài hát của ông có tính chất phản chiến, nhà cầm quyền miền Nam đã cấm lưu hành vài tác phẩm của ông. Ngay cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, vốn đối lập, cũng không tán thành việc ông gọi Chiến tranh Việt Nam là “nội chiến” trong bài Gia tài của mẹ, vì quan điểm của họ cho rằng đây là cuộc chiến tranh chống xâm lược và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, nhiều bài hát của ông lại rất thịnh hành trong công chúng cho đến hôm nay.

Năm 1961 vì bắt buộc phải trốn lính nên ông thi và theo học ngành Tâm lý giáo dục trẻ em tại trường Sư phạm Quy Nhơn. Sau khi tốt nghiệp ông dạy tại một trường tiểu học ở Bảo Lộc, Lâm Đồng

Một số bài hát của Trịnh Công Sơn đã đến với công chúng Nhật Bản năm 1970 như Diễm xưa (do Khánh Ly biểu diễn bằng cả tiếng Nhật và tiếng Việt), Ca dao Mẹ, Ngủ đi con.

Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông lên đài truyền thanh Sài Gòn hát bài Nối vòng tay lớn, bài hát nói về ước mơ hoà hợp dân tộc hai miền Nam Bắc mà ông viết từ năm 1968.

Theo BBC, sau khi chiến tranh kết thúc, gia đình ông di tản sang Mỹ và ông đã phải sống 4 năm trong trại cải tạo. Nhưng cũng có những nguồn tin theo tác giả Bùi Đức Lạc thì Trịnh Công Sơn chỉ đi kinh tế mới vài năm chứ không hề có cải tạo hay ông đi học tập 2 năm ở Cồn Tiên. Một thời gian dài sau 1975, nhạc của ông bị cấm đoán ở tại Việt Nam hay bị một ít người ngấm ngầm tẩy chay ở hải ngoại.

Những năm sau 1975, sau thời gian tập trung lao động, ông làm việc tại Hội Âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh, tạp chí Sóng nhạc. Từ thập niên 1980, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác lại, và có viết một số bài có nội dung ca ngợi chế độ mới như Thành phố Mùa Xuân, Em ở nông trường em ra biên giới, Huyền thoại Mẹ... Sau đó nhà nước Việt Nam đã nới lỏng quản lý văn nghệ, ông lại tiếp tục đóng góp nhiều bản tình ca có giá trị.

Ông cũng là một diễn viên điện ảnh nghiệp dư, năm 1971 ông thủ vai chính trong phim Đất khổ. Phim hoàn tất năm 1974, nhưng chỉ được chiếu cho công chúng xem 2 lần rồi không được phép trình chiếu ở Miền Nam Việt Nam với lý do “có tính phản chiến”. Sau năm 1975, bộ phim không được trình chiếu tại Việt Nam. Cuối cùng, một bản phim đã về tay nhà thơ Đỗ Trung Quân. Bộ phim được chọn là phim Việt Nam chính trong Liên hoan phim Á - Mỹ năm 1996.

Ông bị bệnh gan, thận và tiểu đường. Ông mất tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh tiểu đường lúc 12h45 ngày 1 tháng 4 năm 2001 (tức ngày 8 tháng 3 năm Tân Tỵ). Từ đó hàng năm giới hâm mộ đều lấy ngày này làm ngày tưởng niệm

Suốt đời, Trịnh Công Sơn yêu nhiều nhưng không chính thức kết hôn với ai, và cũng chưa chính thức công nhận con.

Sự nghiệp sáng tác

Trịnh Công Sơn sáng tác được khoảng hơn 600 ca khúc, những tác phẩm không những mang đậm một phong cách riêng mà còn gửi gắm một triết lý. Ông từng lý giải cho cái sự sáng tác của mình: “Tôi chỉ là một tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo...”

Nhạc tình
Tình yêu là đề tài lớn nhất trong các tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Những bản tình ca chiếm đa số trong danh mục nhạc phẩm. Khả năng viết nhạc tình của họ Trịnh tưởng chừng không biết mai một theo năm tháng, theo thời đại: từ 1958 với Ướt mi đã nổi tiếng cho đến thập niên 1990 vẫn có những bản tình ca thấm thía: Như một lời chia tay, Xin trả nợ người...

Nhạc tình của ông đa số là nhạc buồn, thường nói lên tâm trạng buồn chán, cô đơn như trong Sương đêm, Ướt mi, những khúc tình ngầm mang sầu ly biệt như Diễm xưa, Biển nhớ, hay tiếc nuối một cái gì đã qua: Tình xa, Tình sầu, Tình nhớ, Em còn nhớ hay em đã quên, Hoa vàng mấy độ... Ngoài ra còn những bài triết lý tình, mang một bóng dáng ngậm ngùi, lặng lẽ của người tình từng trải: Cỏ xót xa đưa, Gọi tên bốn mùa, Mưa hồng...

Những bài hát này có giai điệu nhẹ nhàng, dễ hát, thường được viết với tiết tấu chậm, thích hợp với điệu Slow, Blues hay Boston. Phần lời được đánh giá cao nhờ đậm chất thơ, bề ngoài trông mộc mạc nhưng rất thâm trầm sâu sắc, đôi khi mang những yếu tố tượng trưng, siêu thực.

Nhạc tình của Trịnh Công Sơn rất phổ biến tại Việt Nam, nhạc sĩ Thanh Tùng từng gọi Trịnh Công Sơn là “người Việt viết tình ca hay nhất thế kỷ”.

Nhạc phản chiến
Tên tuổi của Trịnh Công Sơn còn gắn liền với một loại nhạc mang tính chất chống lại chiến tranh, ca ngợi hoà bình mà người ta thường gọi là nhạc phản chiến, sau này tài tử hơn và để tránh nhầm lẫn với những ca khúc phản chiến của tác giả khác, người ta gọi là Ca khúc da vàng.

Theo Bửu Chỉ, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác dạng nhạc này vào khoảng năm 1965 - 1966. Năm 1966, ông cho ra đời tập Ca khúc Trịnh Công Sơn, trong đó có manh nha một xu hướng chính trị yếm thế. Đến năm 1967, nhạc Trịnh lên đến đỉnh cao của sự phản chiến bằng tập Ca khúc da vàng. Năm sau, ông cho ra tiếp tập Kinh Việt Nam. Từ năm 1970 tới 1972 ông tự ấn hành được hai tập nhạc phản chiến là Ta phải thấy mặt trờiPhụ khúc da vàng.

Nhạc phản chiến của họ Trịnh phần lớn viết bằng điệu Blues, cộng với lời ca chân tình thống thiết, trở nên những bài hát rất cảm động nhưng không hề yếu đuối, bỉ mị. Những bản nhạc này được ông cùng Khánh Ly đem đi hát ở nhiều nơi tại miền Nam, được nhiều người nhất là giới sinh viên nhiệt tình ủng hộ. Đây cũng là loại nhạc làm cho danh tiếng của Trịnh Công Sơn lan ra thế giới: nhờ nhạc phản chiến ông được một Đĩa Vàng (giải thưởng âm nhạc) tại Nhật và có tên trong tự điển bách khoa Encyclopédie de tous les pays du monde của Pháp.

Nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn được cho là có vai trò không nhỏ trong giai đoạn cuối của chiến tranh Việt Nam. Cũng vì loại nhạc này mà ông đã bị tẩy chay nhiều lần từ cả hai phe đối địch. Nhưng về phía Trịnh Công Sơn, không thể phủ nhận rằng ông đã trở thành một tên tuổi đặc biệt nhờ vào dòng nhạc này.

Cho đến nay, sau hơn 30 năm hoà bình, rất nhiều bài hát của ông vẫn còn bị cấm trình diễn tại Việt Nam, dù rất phổ biến (và được Khánh Ly phát hành băng nhạc) tại miền Nam trong thời chiến tranh Việt Nam (như bài Chính chúng ta phải nói hoà bình, Hát trên những xác người, Ta đi dựng cờ, Ta quyết phải sống).

Nhạc khác
Ngoài các bản nhạc tình và nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn còn để lại những tác phẩm viết về quê hương: Chiều trên quê hương tôi, viết cho trẻ em: Em là hoa hồng nhỏ, Mẹ đi vắng, và cả những bài nhạc đỏ: Huyền thoại Mẹ, Em ở nông trường - em ra biên giới, Nối vòng tay lớn, Ánh sáng Mạc Tư Khoa, Chưa mất niềm tin, Huế - Sài Gòn - Hà Nội... Trong đó nổi tiếng hơn cả là các bài Em là hoa hồng nhỏNối vòng tay lớn - có thể nói rằng không một thanh thiếu niên Việt Nam nào lại không biết đến hai bài hát này.

Thơ
Có khá nhiều bài thơ (văn vần không được phổ nhạc) của ông hoặc được cho là của ông hiện đang được truyền tụng trên các diễn đàn.

Hội hoạ
Cũng giống như đàn anh Văn Cao, Trịnh Công Sơn để lại khá nhiều tác phẩm hội hoạ, bút tích.

Một số trong đó hiện còn được lưu giữ và trưng bày tại Hội Ngộ Quán.

Đóng góp cho điện ảnh
Diễn viên: phim Đất khổ.

Viết nhạc và bài hát cho phim: Cánh đồng hoang.

Nhạc và bài hát được sử dụng trong phim: Mùa hè chiều thẳng đứng, Công chúa teen và ngũ hổ tướng (bài Để gió cuốn đi).

Phim về Trịnh: Trịnh Công Sơn - sống và yêu của đạo diễn Lê Dân (Lê Hữu Phước).

Vinh dự

Năm 1972, ông đoạt giải thưởng Đĩa Vàng ở Nhật Bản với bài Ngủ đi con (trong Ca khúc da vàng) qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly. Năm 1979, hãng đĩa Nippon Columbia mời Khánh Ly thu băng lần thứ nhì các nhạc phẩm của ông, cũng vào năm này ca khúc Ngủ đi con trở thành một hit ở Nhật Bản.

Giải thưởng cho Bài hát hay nhất trong phim Tội lỗi cuối cùng.

Giải Nhất của cuộc thi “Những bài hát hay nhất sau 10 năm chiến tranh” với bài Em ở nông trường, em ra biên giới.

Giải Nhất cuộc thi Hai mươi năm sau với bài Hai mươi mùa nắng lạ.

Năm 1997 ông đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhạc sĩ cho một chuỗi bài hát: Xin trả nợ người, Sóng về đâu, Em đi bỏ lại con đường, Ta đã thấy gì hôm nay.

Trịnh Công Sơn có tên trong tự điển bách khoa Pháp Encyclopédie de tous les pays du monde (Coll. Les Millions)

Thông tin nghệ sĩ

Sinh: 28 tháng 2, 1939, tại Ban Mê Thuột, Đắk Lắk
Nguyên quán: Thừa Thiên - Huế
Mất: 1 tháng 4, 2001 (62 tuổi) tại Thành phố Hồ Chí Minh
Thể loại: Tình khúc 1954-1975, nhạc Trịnh, nhạc phản chiến, nhạc thiếu nhi
Nghề nghiệp: Nhạc sĩ, ca sĩ, nhạc công, nhà chính trị
Nhạc cụ: Ghi-ta
Năm hoạt động: 1958-2001
Ca khúc tiêu biểu: Diễm xưa, Biển nhớ, Cát bụi, Hạ trắng, Tuổi đá buồn, Một cõi đi về, Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui, Nhớ mùa thu Hà Nội, Nối vòng tay lớn, Trường ca Đoá hoa vô thường
Ca sĩ trình bày thành công: Khánh Ly

Trịnh Công Sơn (28 tháng 2 năm 1939 – 1 tháng 4 năm 2001) là một nhạc sĩ người Việt Nam. Ông được coi là một trong những nhạc sĩ lớn của âm nhạc đại chúng, Tân nhạc Việt Nam với nhiều tác phẩm rất phổ biến. Hiện nay chưa có thống kê chính xác về số tác phẩm để lại của ông (ước đoán con số không dưới 600 ca khúc). Tuy nhiên số ca khúc của ông được biết đến rộng rãi là 236 ca khúc (cả lời và nhạc). Nhạc của Trịnh Công Sơn được nhiều ca sĩ thể hiện, nhưng thành công hơn cả là Khánh Ly. Ngoài ra, ông còn được xem là một nhà thơ, một hoạ sĩ, một ca sĩ và một diễn viên không chuyên.

15.00
Chia sẻ trên Facebook