Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Thu Nguyệt
Đồng ruộng quê mình làm bằng dấu chân baCho nên khi xa nhà, xa quê, lúc nào chị cũng quay lòng mình về quê hương với nỗi nhớ rỉ rả mà thấm đẫm:
Từ đấy cần cù mọc lên ngọn lúa
Con lớn lên trên cánh đồng ngậm sữa
Đứng nơi nào cũng trên dấu chân ba
(Dấu chân Ba - Điều thật)
Bất ngờ tiếng chim rơi cuối phốYêu và gắn bó với quê hương, Thu Nguyệt luôn khẳng định mình với mọi người điều đó khi chị 2 lần (trong hai tập thơ Điều thật và Ngộ) nhắc lại rằng: “Tôi là con bé nhà quê”; và chị thành thật thú nhận:
Điếng lòng trong trẻo tiếng quê xa
Thành thị ta ngồi nghe nước mắt
Tí tách rơi tuôn nỗi nhớ nhà...
(Nhớ nhà - Ngộ)
Thị thành dù giáp dấu chânThơ Thu Nguyệt là những sự trăn trở, mà đã là trăn trở thì đa phần là buồn. Cái sự buồn có nhiều cấp độ khác nhau, cái buồn ở Thu Nguyệt là cái buồn man mác, cái buồn của sự hiểu rõ mình, rõ việc:
Nằm mơ vẫn nhớ lời dân miệt đồng
(Bến lở - Ngộ)
Tháng ngày nhẹ hững đi qua
Những điều gần đó rồi xa...thật thường!
(Sẽ đến rồi qua - Cõi lạ)
Ước gì ta được buồn như đáChị suy tư phiền muộn nhẹ nhàng, trầm tĩnh về cái có, không, ở và về của kiếp người:
Nước giỡn mà ta khuyết thật thà
(Ước - Cõi lạ)
Kiếp phù du, giấc phù hoa
Lấy ai ru đá giùm ta sau này?!
Thôi thì đá ngủ cho say
Để rồi thức giấc ngày mai một mình
(Ru đá - Cõi lạ)
Nghe lòng rung một hồi chuôngBuồn như thứ “gien” có sẵn trong máu, trong hồn người thi sĩ, cứ phải “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn” (Xuân Diệu). Thu Nguyệt biết tấn công vào nỗi buồn rồi lại dỗ dành, hoá giải nó một cách hết sức tỉnh táo và tự tin:
Tiếng vang như có lại dường như không
(Chùa xa - Cõi lạ)
Giá được làm cỏ dại lan man
Vơ vẩn sống, phất phơ đời bên tháp
Vui với nắng sương, mưa trùm gió đập
Lặng lẽ đâm chồi, ta tự trùng tu
(Tháp Chàm - Cõi lạ)
Hoa vô tư nở bên đờiTrong thơ Thu Nguyệt tôi hay gặp những từ ngữ bình thường giản dị, nhưng được tác giả đặt đúng chỗ đến nỗi tôi nghĩ rằng khó có thể thay thế được bằng những từ ngữ dù văn hoa hơn. Ví dụ, khi đứng trên một bãi cát ở biển, bàn chân ta sẽ không có cảm giác như ở trên đất, và cái cảm giác ấy được Thu Nguyệt gọi tên thật đúng:
Ta vô tình lại học đòi xót xa
(So đũa hoa - Cõi lạ)
Nghe nước mắt hành tinh oà lên má
Và nao lòng nghe cát rã quanh chân
(Với biển - Ngộ)
Cũng từ rã ấy với một bông hoa khi tàn rơi:Hay khi nhớ đến Hàn Mặc Tử:
Gói hương hoa trả cho trời
Cánh hoa rụng xuống mùa tôi rã buồn!
(Hạch thảo - Ngộ)
Tôi bây giờ trước biển lặng thinhHoặc khi nói về những đứa trẻ con trong ngày Tết:
Nhặt hòn đá bần thần không dám ném
(Trước biển Qui Nhơn - Cõi lạ)
Hồi xưa Tết thiệt là vuiThu Nguyệt tin cậy, nương nhờ vào thơ truyền thống. Chị bước tới bằng nhịp điệu “đánh sáng” lời ăn tiếng nói dân gian, chuyển đổi, đặt để từ ngữ khéo léo, điêu luyện:
....
Đêm giao thừa ngủ thấy thương
Anh đem pháo đốt bên giường mới hay
(Tết xưa - Cõi lạ)
Tôi là con bé nhà quê
Quanh đâu cũng quẩn về bến sông
(Tản mạn - Điều thật)
Qua mùa, ngọc rớt vàng rơi
Văn chương lả tả con ngoi về nhà
(Cỏ dại - Ngộ)
Cởi giày ngồi phịch bến sông
Xoè ra mười ngón tay không mà cười
(Tự bạch - Ngộ)
Bóng mình dòm kỹ thấy khơi khơi
(Sự mình - Cõi lạ)
Ta lêu bêu không bạn không thùTôi cứ đọc thầm “Thiệt... tình!” và thú vị khoái chí cười một mình. Thiệt tình tưởng là không..., nghe như có thiếng thở dài trách móc nhẹ nhàng cái giọt nhỏ long tong ấy vậy. Tôi nghe như chính Thu Nguyệt nói (mặt mày hồn nhiên, tươi rói): “Vậy mà mình cứ tưởng là không chớ ta!”, và chị cười, nhưng không phải là không buồn!
Nói cười răm rắp
Nghĩa tình xâm xấp
Không đầy cũng chẳng vơi
...
Đêm qua trời chuyển thu rồi
Lá đâu một chiếc bỗng rơi vào phòng
...
Giọt buồn nhễu hạt long tong
Vậy mà cứ tưởng là không...
Thiệt tình!
(Nhà mình - Cõi lạ)