Tác giả cùng thời kỳ

- Xuân Diệu (357 bài)
- Tố Hữu (251 bài)
- Nguyễn Bính (284 bài)
- Hàn Mặc Tử (216 bài)
- Trần Đăng Khoa (151 bài)
Tạo ngày 14/03/2005 17:50 bởi Vanachi, đã sửa 5 lần, lần cuối ngày 10/04/2008 05:54 bởi Cammy
T.T.Kh. là một tác giả ẩn danh trong phong trào Thơ mới (1930–1945), tác giả bài Hai sắc hoa ti-gôn nổi tiếng. Nhiều người đã suy đoán lai lịch thật của T.T.Kh. nhưng chưa có giả thuyết nào thuyết phục được công chúng.

Sau khi truyện ngắn Hoa ti-gôn của Thanh Châu đăng năm 1937 trên Tiểu thuyết thứ bảy (Hà Nội), toà soạn nhận được hai bài thơ, do một thiếu phụ trạc 20, dáng bé nhỏ, thuỳ mị, nét mặt u buồn, mang đến gửi cho chủ bút, ký tên T.T.Kh., xin đăng báo. Báo này đăng hai bài thơ đó và xin tác giả cho địa chỉ nhưng tác giả từ chối. Sự việc rắc rối là trong khi tác giả T.T.Kh. im lặng thì một vài nhà thơ đương thời như Nguyễn Bính, Thâm Tâm đã sáng tác các bài thơ hưởng ứng trong đó dường như có biết, thậm chí có dính líu với đời tư người này từ trước (Cô gái…

 

Tuyển tập chung

 

 

Trang trong tổng số 2 trang (19 bình luận)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]

Ảnh đại diện

Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh - Kỳ 6: Ai có thể là T.T.Kh.?

Quá trình lần theo dấu vết con người bí ẩn này, chúng ta đã đưa ra được một số tiêu chí để xác định ai có thể là T.T.Kh. Thứ nhất, T.T.Kh phải là một người phụ nữ. Thứ hai, T.T.Kh phải là người thân thiết với nhà văn Thanh Châu. Cụ thể hơn, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu. Như vậy, ta phải loại bỏ tất cả các “ứng viên” là nam giới như Thâm Tâm, Nguyễn Bính, J.Leiba... cùng một số “ứng viên” nữ như Trần Thị Khánh...

Vậy còn lại ai sẽ là người phù hợp với T.T.Kh? Đến đây, có lẽ ta cần cho nhân vật thật xuất hiện để đối chiếu. Trong số những người phụ nữ được giả định trước đây, chỉ có một “ứng viên” duy nhất phù hợp với vị trí của T.T.Kh theo tiêu chí nói trên. Đó chính là bà Trần Thị Vân Chung, người được tác giả Thế Nhật phát hiện ra và tiết lộ trong cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? Đây là nhân vật đã gây ra nhiều tranh cãi trên công luận vào năm 1994.

Xin nhắc lại một số thông tin về bà Trần Thị Vân Chung. Bà sinh năm 1919 tại Thanh Hoá. Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, lớn lên lập gia đình với một người đỗ cử nhân luật, có lúc làm quan tri huyện, về sau làm đến chức Tổng trưởng Quốc phòng trong chế độ Sài Gòn.

Về văn chương, bà Vân Chung là người thường hay làm thơ, viết văn với bút danh Vân Nương, Tam Nương... Bà tham gia nhóm thơ Quỳnh Dao - nhóm thơ của những người phụ nữ đài các trưởng giả lúc trước ở miền Nam, thường làm thơ xướng hoạ với nhau như một sinh hoạt tinh thần. Nữ sĩ Mộng Tuyết cũng là một trong những chủ soái của nhóm thơ này. Bà đã có một số thơ đăng trên các báo ở Sài Gòn trước năm 1975. Năm 1986, bà cùng các con xuất cảnh sang Pháp. Bà vẫn tiếp tục làm thơ đăng trên các tạp chí tiếng Việt ở nước ngoài.

Năm 1994, khi cuốn sách T.T.Kh, nàng là ai? ra đời, nêu đích danh tên tuổi bà Vân Chung, thì chính bà Vân Chung đã công khai lên tiếng phủ nhận mình là T.T.Kh. Thư của bà từ Pháp gửi về được đăng tải trên Thanh Niên và một số tờ báo khác. Ngoài ra có một số độc giả cũng viết bài gửi đến báo, không tin bà Vân Chung chính là T.T.Kh. Điều này đã làm nhiều người ngờ vực tính chân thực của cuốn sách nói trên. Bởi vì cuốn sách được viết ra dựa trên sự tiết lộ vô tình của một người khác là bà Thư Linh, người quen biết với bà Vân Chung sau năm 1975 chứ tác giả không có thông tin trực tiếp.

Nhưng bên cạnh đó, một số tác giả lại ủng hộ việc cho rằng T.T.Kh chính là Trần Thị Vân Chung. Chẳng hạn tác giả T.N trên Báo Tuổi Trẻ chủ nhật ngày 2/10/1994 viết: “Đưa ra tên tuổi thật của T.T.Kh, với đầy đủ cuộc đời, nguồn gốc. Một nghi án văn học đã quá lâu, nay lỡ biết rồi thì không thể không công bố”. Tác giả Ngọc Tình trên Báo Sài Gòn Giải Phóng vào ngày 9.10.1994 cũng viết: “Cuối cùng bí mật đã được phát giác, tác giả cuốn sách giải trình đầy đủ tư liệu hơn nửa thế kỷ qua”. Báo Lao Động số ra ngày 13/10/1994 viết: “Một nghi án văn học đã gần 60 năm quanh một chùm thơ nổi tiếng của tác giả T.T.Kh. Đến nay, Thế Nhật với những tư liệu và chứng cứ rõ ràng mới bật mí được câu chuyện tình lãng mạn bậc nhất trong văn học Việt Nam này”.

Các ý kiến của người quan tâm rất không thống nhất với nhau như vậy. Riêng chúng tôi, khi xem xét lại tất cả các vấn đề, thật đáng ngạc nhiên là chúng tôi thấy bà Vân Chung có một nhân thân phù hợp với T.T.Kh đến kỳ lạ.

Trước hết, bà Vân Chung chính là người yêu của nhà văn Thanh Châu, tác giả truyện ngắn Hoa ti gôn. Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh Châu xác nhận - một điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người trong cuộc. Đây là một điều tối quan trọng, đáp ứng tiêu chí cần phải có của T.T.Kh (xin nhấn mạnh lại một lần nữa, bất cứ nhân vật nào, muốn là “ứng viên” để vào vị trí T.T.Kh thì theo quan điểm của chúng tôi, người đó phải là người yêu của nhà văn Thanh Châu).

Nhà văn Thanh Châu cùng sinh trưởng ở thị xã Thanh Hoá như bà Vân Chung, gia đình thuộc dòng dõi quan lại nhưng đến thời của ông thì gia cảnh sa sút. Ngược lại, gia đình bà Vân Chung lúc đó làm kinh doanh buôn bán, kinh tế khá giả hơn rất nhiều.

Thanh Châu là bạn của người anh ruột bà Vân Chung. Ông có dịp trò chuyện với cô em của người bạn mình là bà Vân Chung khi đi trên chuyến tàu từ Hà Nội về Thanh Hoá. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khởi đầu cho một cuộc tình đầy nước mắt về sau.

Trở về Thanh Hoá, hai người tiếp tục qua lại với nhau và tình cảm ngày càng thắm thiết. Gia đình hai bên cũng đều biết việc này nhưng cuộc tình duyên không đi đến đoạn kết vì vấn đề môn đăng hộ đối. Sau cú sốc này, Thanh Châu ra Hà Nội sống, Vân Chung ở lại quê nhà, một thời gian sau thì đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ trong Bài thơ thứ nhất: “Ở lại vườn Thanh có một mình/Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh/Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo/Yêu bóng chim xa nắng lướt mành”.

Ra Hà Nội một thời gian, Thanh Châu nhận được tin tức từ gia đình nhắn ra cho biết bà Vân Chung chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng. Câu thơ tiếp theo của T.T.Kh viết đúng như hoàn cảnh của bà Vân Chung: “Và một ngày kia tôi phải yêu/Cả chồng tôi nữa lúc đi theo/Những cô áo đỏ sang nhà khác/Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều”.

Mối tình giữa Thanh Châu và Vân Chung là một mối tình văn chương cao đẹp vì cả hai người đều có tâm hồn văn nghệ sĩ. Truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu thể hiện đầy chất lãng mạn và những bài thơ của Vân Chung viết sau này cũng thật lãng mạn mà chúng tôi sẽ giới thiệu với bạn đọc trong kỳ tới để tiện so sánh với thơ T.T.Kh.

Sau khi chia tay, hai người không có điều kiện gặp lại nhau nữa vì đến năm 1954, hai miền Nam Bắc chia đôi, Vân Chung đã cùng chồng vào Nam còn Thanh Châu ở lại quê nhà. Mãi cho đến bốn mươi năm sau, khi miền Nam giải phóng, Thanh Châu mới tìm vào Sài Gòn để thăm lại cố nhân.

Nhà văn Thanh Châu đã trực tiếp xác nhận chừng đó thông tin với chúng tôi. Nhưng ông không đồng ý khi chúng tôi đặt vấn đề rằng T.T.Kh chính là bà Trần Thị Vân Chung. Vì vậy, chúng ta hãy tiếp tục so sánh đối chiếu.


Trần Đình Thu

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh - Kỳ 7: Sự phù hợp giữa Trần Thị Vân Chung và T.T.Kh.

Chúng ta thấy, trước hết việc giả định Trần Thị Vân Chung chính là T.T.Kh đã giải quyết được nhiều vướng mắc trong nghi án. Chẳng hạn chi tiết “vườn Thanh” làm nhiều người tranh cãi kịch liệt từ bao năm nay sẽ trở nên rất đơn giản khi đưa vào đây. Nếu chúng ta chấp nhận Vân Chung là T.T.Kh thì vườn Thanh sẽ được hiểu đơn giản hơn: đó là một cách nói hoa mỹ để chỉ thị xã Thanh Hoá, nơi mà hai người có nhiều kỷ niệm trong thời gian quen biết nhau.

Chúng ta hãy xét về nhân thân bà Vân Chung để so sánh với T.T.Kh. Trong phần phân tích thơ T.T.Kh, chúng ta đã đưa ra nhận định, tác giả này phải là một người sinh trưởng trong một gia đình khá giả, thuộc tầng lớp tân học. Điều này rất đúng với trường hợp của bà Vân Chung. Và Thanh Châu cũng là một người tân học: trước học cao đẳng tiểu học Vinh, sau ra Hà Nội học trường đạo.

Một điều quan trọng nữa là tuổi của “ứng viên”. Theo xác nhận của chính bà Vân Chung, thì bà sinh năm 1919, tính đến năm 1937 là bà đã 18 tuổi tròn. Đó là tính theo tuổi Tây. Còn theo tuổi ta thì đã 19. Như vậy bà hoàn toàn có thể lấy chồng hoặc chồng đi dạm hỏi vào trước năm 1937. Vậy thì đến tháng 9/1937, nếu là T.T.Kh thì bà có thể viết trong Hai sắc hoa ti gôn: “Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng/ Trời ơi! Người ấy có buồn không”.

Cũng cần nhắc lại là khi bà Vân Chung lấy chồng, ông Thanh Châu ở Hà Nội chứ không ở quê nhà. Vì thế cho nên Vân Chung mới nghĩ rằng ông không biết việc bà đi lấy chồng. Chi tiết này phù hợp với câu thơ “Nếu biết rằng...”

Đến đây ta tạm dừng việc so sánh đối chiếu lại một chút để đọc lại những trang viết của ông Thanh Châu. Liên quan đến nghi án này, Thanh Châu đã viết cả thảy hai tác phẩm. Một là truyện ngắn Hoa ti gôn mà từ đó có thơ của T.T.Kh “hoạ” lại. Hai là bài tuỳ bút Những cánh hoa tim vào năm 1939 để kết lại câu chuyện. Ta thấy gì trong những trang viết của Thanh Châu?

Khi xa Vân Chung ra Hà Nội, Thanh Châu đã hết sức sầu thương về mối tình ấy. Trong bài tuỳ bút Những cánh hoa tim đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, ông viết: “Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái. Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu”. Đó chính là sự chua xót về mối tình giữa ông và Vân Chung mà ngày nay ông đã xác nhận.

Vào thời gian này, tiểu thuyết Đoạn tuyệt của Nhất Linh cũng vừa mới ra đời. Đó là cuốn tiểu thuyết luận đề, có ý nghĩa đả phá những tập tục hôn nhân gia đình phong kiến ngự trị ngàn năm trong xã hội Việt Nam. Thế nhưng Nhất Linh cũng không sắp xếp nổi cho nhân vật Loan của mình trốn đi với Dũng mà phải để cho hai người chia tay nhau, Loan lên xe hoa về nhà chồng, Dũng cất bước ra đi chốn hải hồ. Ấy là vì lúc này hoàn cảnh xã hội chưa cho phép nhà văn thực hiện cuộc cải cách quá mạnh mẽ như vậy, dù là trong tiểu thuyết. Bởi quan niệm cổ xưa còn hết sức nặng nề. Như thế để thấy rằng, vào thời kỳ 1935 - 1937, những cô gái dù tân học đến mấy cũng rất khó có thể thoát ra được ngoài vòng cương toả của chế độ gia đình phong kiến. Tình cảnh của Thanh Châu và Vân Chung có lẽ cũng tương tự như tình cảnh của Dũng và Loan.

Trong truyện ngắn Hoa ti gôn của Thanh Châu, nhân vật chính là hoạ sư Lê đã rủ Mai Hạnh trốn đi Nhật để cùng nhau xây cuộc đời mới. Đó là lòng khát khao của những người đang yêu trước cảnh ngang trái tình duyên. Tuy nhiên, nhân vật Mai Hạnh không đủ can đảm thực hiện vì “em không phải là loại đàn bà có thể vượt hết được những khó khăn như anh tưởng”, vì “em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em”. Những chi tiết, hình ảnh tiếp theo trong truyện ngắn mang đầy ẩn ý. Chẳng hạn như chi tiết nhân vật Mai Hạnh chết đi, chi tiết dây hoa ti gôn trong thư báo tang rơi ra, chi tiết hoạ sư Lê đặt bó hoa lên nấm mộ nàng... Những chi tiết ấy mang đầy sự trách móc, hờn giận, đớn đau. Nửa phần muốn chôn chặt tình yêu xuống đáy mồ sâu, nửa phần nhớ thương quay quắt cuồng dại mãi không thôi. Ta tin rằng những nỗi niềm của nhân vật chính là nỗi niềm của tác giả. Những hoài niệm, u uất của nhân vật về những “cánh hoa tim vỡ” là của Thanh Châu.

Năm 1939, sau khi câu chuyện T.T.Kh đã đi qua, Thanh Châu cho đăng bài tuỳ bút Những cánh hoa tim trên Tiểu thuyết thứ bảy. Bài tuỳ bút này, một mặt ông phủ nhận mọi sự dính líu đến T.T.Kh, một mặt ông giãi bày tâm sự của mình.

Chính ra Thanh Châu đã bị ám ảnh bởi những cánh hoa ti gôn khi ông viết trong Những cánh hoa tim: “Một mùa thu cũ, tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng nó đi trước một giàn hoa. Đó là thời kỳ tôi ốm dậy, buổi chiều thường đi thơ thẩn trong sân”. Ta nhớ rằng, tác phẩm Hoa ti gôn là truyện ngắn nhưng tác phẩm Những cánh hoa tim là tuỳ bút. Mà tuỳ bút là nói chuyện thật chứ không nói chuyện hư cấu. Thanh Châu đã vò nát những cánh hoa ti gôn vì lẽ gì? Phải chăng vì nó đã từng là “chứng nhân” một thời của tình yêu giữa ông và Vân Chung? Thanh Châu viết tiếp trong bài: “Bỗng nhiên, nhìn những cánh hoa đỏ trong tay, tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu”.

Trong những phần trước, chúng ta đã nhắc đến chuyện những cánh hoa ti gôn. Giờ đây ta lại thấy rõ hơn chút nữa. Như vậy chính ra Thanh Châu là người đầu tiên nhìn thấy bông hoa ti gôn có hình quả tim vỡ chứ không phải nhân vật truyện ngắn hoạ sư Lê. Giữa Thanh Châu và Vân Chung có thể đã có nhiều kỷ niệm về loài hoa “đỏ như màu máu thắm phai” này. Cho nên Thanh Châu trong một đêm buồn bã nhớ nhung hoài niệm về mối tình xưa, xót xa nghĩ lại những cánh hoa tàn úa thuở nào, đã không kìm nổi lòng mình mà cầm bút viết nên truyện ngắn để giải toả cảm xúc, cũng là để gửi về “vườn Thanh” cho người xưa.

Vào thời kỳ 1937, những cô gái có tâm hồn văn chương lãng mạn đều tìm đọc tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy. Vì thế truyện ngắn này đã đến tay Vân Chung ngay lập tức. Đọc xong truyện ngắn, Vân Chung chắc chắn cũng đau lòng không kém. Trong tình cảnh như thế, thì một người như Vân Chung hiển nhiên phải làm thơ để gửi lại cho Thanh Châu. Và những bài thơ ấy, rất có thể là những bài Hai sắc hoa ti gôn, Bài thơ thứ nhất, Bài thơ cuối cùng lắm chứ? Tại sao không?

Đến đây chúng tôi muốn trở lại với riêng bà Vân Chung. Trước đây có người đưa ra một số “ứng viên” nữ, nhưng không thấy nhắc đến lý lịch văn học của những người đó. Chúng ta nhớ rằng, nếu là T.T.Kh thì dứt khoát phải là một người cầm bút. Ít ra là phải như bà Vân Chung, có thơ in thành tập, có sinh hoạt văn học nơi này nơi kia, có thơ đăng báo...

Chúng tôi đã cố gắng sưu tầm được một ít thơ của bà Vân Chung để bạn đọc có thể đánh giá chúng. Trước hết xin đọc vài câu thơ của bà Vân Chung viết về mùa thu:

Nhớ những mùa thu trước
Êm cảnh thanh bình
Trăng ngà trải lụa thiên thanh
Khuôn hoa e ấp trên cành thắm tươi
Thế rồi
Bão táp mưa sa
Trăng tàn hoa tạ
Mông mênh sầu ngập biển đời
Trời thu lộng gió để người sầu thương
(Bài thơ cuối thu, 1960)
Hơi may se cả bầu trời
Hàng cây lá đã vàng phơi ít nhiều
Nhà ai một mái tịch liêu
Chìm trong làng vắng tiêu điều chiêm bao
(Vào thu, 1993)
Bạn đọc thấy thế nào về những câu thơ này? Có chút gì là của T.T.Kh không?

Một điều đặc biệt, bà Vân Chung luôn luôn làm thơ về mùa thu. Mười bài thơ thì có đến năm bài bà nhắc đến mùa thu rồi. Dường như bà bị ám ảnh bởi mùa thu. Đây cũng là một điểm chung với T.T.Kh.

Thơ của bà Vân Chung sau năm 1954 cho đến nay không phải là thơ hay. Hầu hết đều bình thường. Chính vì vậy mà nhiều người cho rằng bà Vân Chung không thể là T.T.Kh vì thơ bà không xứng tầm với thơ T.T.Kh. Lập luận như thế là không đúng. Thật ra không có nhà thơ nào có thể làm thơ hay suốt đời. Nhiều nhà thơ nổi tiếng nhưng về sau vẫn làm những câu thơ rất tầm thường.

Một bài thơ hay phải gắn liền với một hoàn cảnh đặc biệt. Không có hoàn cảnh đặc biệt thì khó có thể có thơ hay. Chẳng hạn Hàn Mặc Tử sẽ không thể nào sáng tác được bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ nếu người đẹp Hoàng Hoa không gửi vào cho chàng một tấm hình chụp phong cảnh bến đò Vỹ Dạ lúc chàng đang tuyệt vọng chán chường trên giường bệnh. Nếu Hữu Loan không có nỗi đau về người vợ vắn số thì không thể nào có được bài thơ Màu tím hoa sim để đời. Nếu Vân Chung là T.T.Kh thì cũng thế. Chỉ trong hoàn cảnh tình duyên ngang trái lỡ làng với người yêu một cách đớn đau tột cùng thì mới sáng tác được những câu thơ như viết bằng máu thịt ấy. Đó là những tác phẩm đỉnh cao của một người làm thơ. Đó là tinh hoa tinh huyết. Còn như Vân Chung sau này, sống một cuộc đời bình thường bên cạnh người chồng giàu sang của mình, làm sao sáng tác được thơ hay, dù trước đó có là T.T.Kh đi chăng nữa. Đó là chuyện bình thường và hợp lý.

Đến đây chúng tôi muốn thưa đôi lời với nhà thơ Vân Chung và nhà văn Thanh Châu cùng quý bạn đọc. Loạt bài này cũng như cuốn sách Giải mã nghi án văn học T.T.Kh sắp xuất bản của chúng tôi chỉ là những giả định. Tuy nhiên, dù giả định nhưng nó vẫn gợi lại những vết thương cũ trong lòng hai người. Đó là một điều đáng tiếc. Tuy vậy chúng tôi không thể không viết lại câu chuyện này. Vì nó là khát khao của người yêu thơ, muốn biết T.T.Kh là ai, vì ai mà để lại cho đời những vần thơ xao xuyến cõi lòng ấy. Chính khi xưa, Hoài Thanh cũng đã từng nhắc trong Thi nhân Việt Nam: “Bốn năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng. Ai biết “con người vườn Thanh” bây giờ ra thế nào? Liệu rồi đây người có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về chín suối?” Cho đến nay, đã qua bảy mươi năm, có lẽ người đã quyết định “ôm nỗi buồn riêng về nơi chín suối” rồi. Vì thế giả định này nếu đúng chắc người cũng không lên tiếng tự nhận mình là T.T.Kh. Vậy xin hãy xem đây như là một việc làm vì lòng mến yêu con người đã để lại cho đời những vần thơ say đắm ấy để có câu chuyện này.


Trần Đình Thu

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Truyện ngắn “Hoa ti gôn” của nhà văn Thanh Châu đăng trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy

“...Hoa leo ti gôn sắc đỏ, sắc hồng, sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở. Nó chẳng giống lòng bất trắc của con người...”
KHÁI HƯNG (Gánh hàng hoa)

Sáng nào cũng vậy, hết giờ dạy vẽ ở trường Mỹ thuật về qua phố Tràng Tiền, hoạ sư Lê cũng không quên mua một bó hoa ti gôn. Đó là thói quen của hoạ sư mà không một người bạn hay người học trò thân nào là không biết rõ. Đến mùa hoa ti gôn nở nhiều nhất, trong nhà hoạ sư Lê người ta chẳng còn thấy một thứ hoa nào khác. Mà có người nào tẩn mẩn ngắt một nụ hoa nho nhỏ ấy xem kỹ, họ sẽ phải cho lời nhận xét của hoạ sư Lê là đúng: Hoa ti gôn hình quả tim vỡ làm mấy mảnh, màu hồng dịu như nhuốm máu đào. Rồi người ta phải tự hỏi thầm: “Tại sao hoạ sư Lê lại thích chơi cái thứ hoa trông như giấy ấy, để trong phòng quá một ngày đã rụng rồi? Chắc lại có điều tâm sự chi đây”.

*

Một buổi trưa – hồi đó Lê Chất hai mươi bốn tuổi, còn là một hoạ sĩ nghèo mới ở trường ra – một buổi trưa đạp xe về các vùng lân cận Hà Nội, Lê Chất rẽ vào làng Mọc với giá vẽ buộc trên xe. Người thiếu niên ấy đi tìm cảnh vẽ. Mà cảnh đẹp đây là một thiếu nữ chàng mới gặp chiều qua.

Đến gần một ngôi nhà cũ kỹ, trông ra dáng biệt thự của một ông quan hưu dùng làm chỗ nghỉ ngơi, Chất hãm xe, nghễnh cổ nhìn qua một hàng rào cây tốt um tùm. Chiều qua, lúc Chất sắp đạp xe rất nhanh qua đó, tình cờ liếc mắt vào nhà, bỗng thấy một thiếu nữ đứng trên một chiếc ghế cao, đang với tay lên những dây hoa đỏ trên giàn nứa. Người con gái mặc áo cánh lụa cụt tay, hở cổ, để lộ một màu da khoẻ mạnh, như thứ da thường ra nắng của những cô gái nhỏ. Hai má ửng hồng, vài sợi tóc trên vầng trán, cảnh “con gái hái hoa” ấy như một bức tranh linh động, khiến người hoạ sĩ phải dừng chân ngắm không chán mắt. Khuôn mặt đều đặn, vẻ đẹp thông minh, nhất là đôi môi có một nét vẻ lạ, đó là thứ nhan sắc hiếm hoi, ai trông thấy một lần đều in sâu trong trí nhớ. Thiếu nữ vô tình, bận gỡ hoa trên giàn đã để Lê Chất có thì giờ nhìn ngắm kỹ. Đến khi cô gái bước xuống đất, sắp vào nhà, đưa mắt nhìn ra đường thấy có người đứng nhìn mình, mới cau mày tỏ vẻ không bằng lòng.

Nhưng từ hôm đó, hôm nào hoạ sư cũng đạp xe vào làng Mọc, giá vẽ buộc trên xe, mà chẳng vẽ bao giờ, vì còn bận quanh quẩn gần biệt thự. Thiếu nữ động trông thấy bóng anh chàng là lẩn vào nhà.

Lê Chất chỉ được trông thấy nàng vài lần nữa rồi thôi bởi ngôi nhà hình như sau đó không có người ở nữa, ngày nào cũng chỉ nhìn thấy có một ông già cuốc cỏ trong vườn.

Rất lâu, Lê Chất mơ màng đến người thiếu nữ. Anh cố nhớ lại khuôn mặt, thân hình, hai cánh tay đẹp để trần, nhất là đôi môi của thiếu nữ. Anh đã vẽ nhiều croquis cất trong album để ghi giữ lại rồi dần dần cũng quên đi…

Lê Chất đã nổi tiếng. Thầy học cũ của anh vì mến tài, đã đưa anh lên một địa vị mà nhiều người ghen tỵ. Tranh của anh được nhiều báo nước ngoài nói đến và bán với giá cao: Anh đã bỏ lối phong cảnh để vẽ người. Tranh vẽ người, nhất là tranh vẽ đàn bà đã khiến các bạn Chất tặng cho cái tên: “Người lấy máu để vẽ các cô gái đẹp”. Hoạ sĩ đã trở nên giàu có, ăn mặc sang, khó tính. Lê Chất bây giờ đã đứng tuổi, từ lâu không còn là gã hoạ sĩ nghèo huýt sáo đạp xe quanh vùng lân cận Hà Thành đi tìm cảnh đẹp, với giá vẽ buộc trên xe đạp.

Mùa lạnh năm ấy, Lê Chất đi vẽ ở một vùng Vân Nam phủ. Trong một bữa tiệc chiêu đãi của toà lãnh sự Pháp, hoạ sĩ trông thấy một thiếu phụ ta, đẹp một vẻ khác thường, nhưng có dáng buồn. Chất bỗng ngờ ngợ như hơn một lần đã gặp người này. Ở đâu? Chất giật mình. Có thể nào? Nhưng quên làm sao được khuôn mặt ấy, đôi môi ấy? Nhờ một người quen giới thiệu, Chất được rõ: Thiếu phụ là vợ một viên chức trong toà lãnh sự.

Trong khi nhảy với thiếu phụ một bản tăng-gô, Lê Chất đột nhiên hỏi:

- Bà vẫn thích hái hoa ti gôn chứ?

Thiếu phụ nhìn chàng rất ngạc nhiên:

- Ông nói gì… tôi không hiểu.

- Có lẽ bà đã quên Hà thành, làng Mọc, cái biệt thự xinh xinh có một giàn hoa…

Người đàn bà ấy kêu lên, mắt long lanh:

- Có phải ông là cái anh chàng hoạ sĩ vẫn nhìn trộm tôi ngày trước đó không?

Nàng nói tiếp:

- Thảo nào mới nhìn ông tôi cũng tự nghĩ không biết đã gặp ở đâu rồi. Tám chín năm rồi đấy, thế mà chúng ta còn nhận được nhau…

Mai Hạnh – tên thiếu phụ – rất buồn ở Vân Nam phủ. Nàng không có bạn. Lấy một người chồng gia thế cân đối với nhà mình, cuộc đời nàng bằng phẳng nơi đất khách. Bây giờ gặp được người cùng xứ, người đó lại đã dự vào dĩ vãng tươi đẹp của mình, một hoạ sĩ nổi danh, nàng không có cảm tình với Lê Chất làm sao được? Hạnh thường đến chỗ hoạ sĩ trọ, thăm viếng mỗi ngày, và thuận cho chàng vẽ một bức chân dung.

Một buổi sáng, hai người đi chơi, trên một ngôi chùa Tàu cheo leo đỉnh núi, Lê Chất nói:

- Tôi biết thế nào trong đời tôi cũng còn gặp Hạnh, bởi vì không bao giờ tôi quên cái buổi chiều ở làng Mọc. Nhưng số mệnh khiến chúng ta gặp nhau lần này có phải là để chúng ta chỉ có thể thành đôi bạn thôi ư? Hạnh có đoán được lòng tôi lúc này không?

Mai Hạnh, giọng run run tái nhợt, giơ tay bịt miệng Lê Chất. Nhưng khi Chất đã ôm nàng thì Hạnh không cưỡng lại:

- Em cũng yêu anh ngay từ buổi đầu.

Thế là, hai người như sống trong một cơn mê.

Mai Hạnh cố chống chọi lại với tình yêu mỗi ngày một lớn, còn Lê Chất thì lo ngại, tính toán như ngồi trên đống lửa. Chàng định cùng Hạnh trốn đi Nhật, không cần danh dự, chức nghiệp, dư luận của người đời. Nhưng Mai Hạnh tuy yếu đuối hơn, rụt rè, e ngại sau cùng cũng nhận lời.

Lê Chất trở về Hà Nội, sắp đặt xong mọi việc, lo lót giấy tờ tiền bạc, đồ dùng đi xa, tất cả đã sẵn sàng, thì phút cuối cùng nhận được thư của Hạnh: “Chất, anh hãy đi một mình và quên em đi, vì em không có thể theo anh. Đừng giận em tội nghiệp, em không phải là loại đàn bà có thể vượt được hết những khó khăn như anh đã tưởng. Đến phút cuối cùng, em bỗng sợ, em sợ gia đình tan tác, khổ thân thầy mẹ em, chồng em khinh bỉ, tai tiếng ở đời, những lo ngại ở tương lai… Em thấy rằng: nếu đi với nhau chưa chắc chúng ta đã sung sướng. Anh thấy chưa? Em là một đứa hèn! Em không yêu anh được như anh tưởng đâu, vì em đã hy sinh anh cho tất cả những lo ngại trên kia. Vậy mà em yêu anh có thể chết vì anh được. Trong đời anh còn nhiều chuyện, anh có thể quên em được đấy! Nhưng còn em thì chẳng bao giờ, chẳng bao giờ! Vì em biết em sẽ không bao giờ tự an ủi được, bởi em đã làm hỏng đời em, nếu em chẳng theo anh…”

Trong thư, một dây hoa ti gôn nhỏ ép rơi ra: những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ, đỏ hồng như nhuộm máu đào.

Lê Chất đặt một cái hôn trên những cánh hoa, và khóc. Nhưng đó là một kẻ đàn ông có nghị lực. Chàng đi du lịch xứ Phù Tang có một mình.

*

Bốn năm sau, một hôm hoạ sư Lê Chất thấy trên bàn giấy mình một phong thư viền đen báo tang. Ông mở ra xem thì đó là của người chồng Mai Hạnh báo tin nàng đã chết.

Hoạ sư đáp xe lửa đi Vân Nam ngay để một buổi chiều đặt trên mồ Mai Hạnh những dây hoa quen thuộc. Rồi trở về Hà Nội, ông mới sực nhớ ra rằng đã quên không hỏi xem Mai Hạnh đã chết vì một bệnh gì, một cơn cảm sốt…, hay vì sầu muộn…

Ngày nay, hoạ sư Lê Chất đã già, nhưng cứ đến mùa hoa ti gôn nở, không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế hoa cũ trong phòng vẽ, vì thứ hoa ấy chóng tàn.


Thanh Châu
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nói thêm về T.T.Kh. (Tác giả những bài thơ nổi tiếng từ 1937)

Năm 1989, Nhà xuất bản Khoa học - xã hội có in mẫu truyện ngắn của tôi (cùng một số truyện của Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh v.v... thời kỳ 1930 - 1945). Bởi thấy còn nhiều người muốn hiểu rõ hơn về T.T.Kh, tôi đã đưa in lại truyện ngắn Hoa ti-gôn viết năm 1937 đăng ở Tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy - truyện ngắn đã gây xúc cảm cho T.T.Kh. nên sau đó toà soạn Tiểu thuyết thứ bảy đã nhận được mấy bài thơ của T.T.Kh. gửi đăng liền được dư luận bạn đọc đương thời chú ý.

Sự thật, ngày nay truyện ngắn và thơ tình như của Xuân Diệu, Xuân Quỳnh, hay lắm chứ, nhưng tại sao từ 1937 đến nay vẫn còn người nhắc đến T.T.Kh?

Cuối năm 1989, một người bà con ở Canada đã gửi thư cho tôi nhờ chép lại mấy bài “thơ cũ” ấy. Và cũng vào dịp đó, tôi được nghe một băng ghi giọng ngâm thơ T.T.Kh. của một bà Hà Nội, nay là kiều bào ở Paris. Mới biết, nỗi bất hạnh của con người, điều ngang ngửa trong chuyện tình duyên đôi lứa, thời nào cũng gây được sự đồng cảm của người đồng loại... Và từ trước tới nay, người đọc các báo Nhân dân, Văn nghệ, sách Nhà xuất bản Văn học (Thơ Thâm Tâm) vẫn lại thấy có người tranh cãi về T.T.Kh.

Vậy T.T.Kh. là ai?

Có phải là Trần Thị Khánh? Hay Tào Thị Khê? Hay Tôn Thị Khuê? Trần Thị Khải, Thái Thị Khương? Ai mà biết được. Cho nên cuối bài truyện ngắn Hoa ti-gôn in lại năm 1989, tôi đã phải viết: “T.T.Kh. là ai? Lúc trước (1937), tác giả đã không cho biết địa chỉ, cũng như không chịu “xuất đầu lộ diện” cho tới ngày nay, nếu còn sống T.T.Kh. phải là lớp “cổ lai hy” rồi. Vậy nên quý trọng sự khiêm tốn của nhà thơ, hẳn có lý do “ẩn tích” của mình.

Viết như vậy, đâu có ổn. Như thế khác gì người đặt bó hoa lên ngôi mộ vô chủ, rồi ra về. Nhưng bạn đọc yêu thơ lại đòi hỏi khác. Người ta muốn biết T.T.Kh. đã vì ai, cho ai mà có thơ? Và người yêu T.T.Kh. có đích thị là Thâm Tâm, hay Nguyễn Bính, hay ai nữa...?

Năm 1986, anh Tô Hoài (trong bài viết về Trần Huyền Trân, đăng tuần báo Văn nghệ, số 45 tháng 11, 1986) cũng lại nhắc: “Câu chuyện tình u uẩn mà nhiều báo một thời bàn tán sôi nổi, nào Hai sắc hoa ti-gôn”, nào T.T.Kh., nào Thâm Tâm và Khánh hay là ai? Những éo le mơ hồ, các anh Thanh Châu, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính - những đồng tác giả ấy - hôm nay cũng còn có bạn có thể kể lại rành rõ được, hay là cứ để mờ ảo mãi như thế...”

Hôm nay, nhân tìm lại những tư liệu còn giữ được, tôi muốn kết thúc cái chuyện cũ càng “mờ mịt” này bằng cách công bố thêm một điều lạ, là “thủ phạm” của sự “nhiễu” này, khiến thiên hạ càng đoán phỏng, đoán mò - chỉ tại Nguyễn Bính đã đăng một bài thơ (đề tặng T.T.Kh.), bài Cô gái vườn Thanh in năm 1940. Đọc lại bài thơ này, người ta thấy Nguyễn Bính có đến Vườn Thanh, trọ nhà một ông già, ông này kể cho nghe chuyện một thiếu phụ cũng “đêm đêm bên cạnh chồng già - bên cạnh bóng người xa hiện về”...

Và rồi Nguyễn Bính tự hỏi:

Bao nhiêu oan khổ vì tình
Cớ sao giống hệt chuyện mình gặp xưa?
Phải chăng, mình có nên ngờ
Rằng người năm ngoái bây giờ là đây?
Một người thơ đa tình như Nguyễn Bính: “Chuyện xưa hồ lãng quên rồi - Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh... (tức T.T.Kh)” bèn ra thơ đề tặng T.T.Kh (cô gái vườn Thanh) người mà Nguyễn Bính chưa hề biết mặt. Bởi vậy, có người đã khẳng định - sau khi đọc bài thơ của Nguyễn Bính - rằng: “Chính ông Bính là người yêu của T.T.Kh. rồi làm thơ người ta tế nhị nói chuyện nọ ra chuyện kia - như thi sĩ Ac-ve đã kín đáo trong thơ của ông ta vậy”.

Người thứ hai, làm cho mọi người gần hơi thoả mãn, chính là Thâm Tâm, khi có bài Màu máu ti-gôn (gửi T.T.Kh., tác giả bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn):
Người ta trả lại cánh hoa tàn
Thôi thế duyên tình cũng dở dang
Màu máu ti-gôn đà biến sắc
Tim người yêu cũ phủ màu tang.
K. hỡi, người yêu của tôi ơi!
Nào ngờ em giết chết một đời
Dưới mồ đau khổ anh ghi nhớ
Hình ảnh em hoài, mãi thế thôi!
“Quên làm sao được thuở ban đầu
Một cánh “ti-gôn” đã khắc sâu
Một cánh hoa xưa màu hy vọng
Nay còn dư ảnh trái tim đau
Anh biết làm sao được hỡi trời
Dứt tình bao nỡ, nhớ không thôi
Thôi em hãy giữ cành hoa úa
Kỷ niệm ngàn năm một cuộc đời...
Theo tôi, đây là một bài thơ dở nhất, không xứng với Thâm Tâm, mặc dù tác giả nói rõ là “K... hỡi, người yêu của tôi...”. Đến nay, tôi không hiểu bài thơ này in ở đâu? Lấy ở đâu ra, sau này lại do Mã Giang Lân tuyển in vào tập Thơ Thâm Tâm (do Nhà xuất bản Văn học in năm 1988, mà không đề năm tháng?) Liền sau bài Màu máu ti-gôn này, nói là của Thâm Tâm “tặng T.T.Kh.” lại thêm bài Các anh như sau (cũng ở tập Thơ Thâm Tâm nói trên):
Các anh hãy chuốc thực say
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im
Giờ hình như quá nửa đêm
Lòng đau đau lại cái tin cuối mùa
Hơi đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi
Giờ hình như ở ngoài trời
Tiếng xe đã nghiến, đã rời rã đi
Tâm tình lạnh nhạt đâu nghe
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch nhiều.
Giờ hình như gió thổi nhiều
Những loài hoa máu đã gieo nốt đời
Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh
Sá chi những chuyện tâm tình
Lòng đau đem chữa trong bình rượu cay...
(Bài này ghi: 1940)
Cũng may, với sự nghi ngờ: “Có thể hai bài thơ trên là thơ dỏm”) lời thơ thô vụng, không chắc của Thâm Tâm, tôi đã tìm đến ông Phạm Quang Hoà, nghe nói ông trước kia có làm thơ, và quen thân với Thâm Tâm, còn giữ được nhiều thơ cũ. Ông Phạm Quang Hoà đã chép cho tôi một bài giống như bài Các anh nói trên. Nhưng theo ông Phạm Quang Hoà thì đây là bài thơ Thâm Tâm trả lời T.T.Kh., sau khi có Bài thơ cuối cùng của T.T.Kh. đăng báo Tiểu thuyết thứ bảy (?).

Bây giờ xem lại thì bài này dài gấp mấy lần bài Các anh. Chỉ đúng có 8 câu đầu là của bài Các anh tiếp theo còn 47 câu thì bỏ, để lại bắt vào đoạn cuối của bài Các anh với 7 câu kết (như trong bài Các anh).

Vậy thì Mã Giang Lân đã lấy ở đâu ra bài Các anh (đã in ở sách Thơ Thâm Tâm nhà xuất bản Văn học - 1988)? Với vẻn vẹn có 16 câu? Nếu trích ở đâu sao không nói rõ?

Về ông Phạm Quang Hoà, ta có thể tin ông là bạn thân của Thâm Tâm, nên mới có Bài thơ trả lời T.T.Kh. của Thâm Tâm mà ông giữ được đến nay. Nhưng sao đọc những câu như:
Tiếng xe mở lối vu quy
Hay là tiếng cắt nàng chia cuộc đời
Miệng chồng KHÁNH gắn trên môi
Hình anh, mắt KHÁNH sáng ngời còn ghi...
KHÁNH ơi, còn hỏi gì anh?
Xưa tình đã lỡ nay tình lại nguyên...
Rõ ràng lời thơ không xứng đáng với mối tình tha thiết và cay đắng của một thiếu phụ như T.T.Kh. đã giữ hẹn xưa:
Cố quên đi nhé, câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ...
Trong khi đó, “người đàn ông của mình” cứ bô bô réo tên mình lên trong thơ, hết K... ơi, lại Khánh ơi? Đến nỗi T.T.Kh. phải kêu lên:
Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng...
Đã thế lại còn Bài thơ đan áo (1938). Ai đã đem bài thơ này của T.T.Kh. đăng lên báo Phụ nữ thời đàm (phố Hội Vũ)? Bài thơ như T.T.Kh. đã nói rõ:
Chỉ có ba người (?) đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp người đời thóc mách xem...
Với mục đích gì “người yêu của T.T.Kh” lại đăng lên báo Bài thơ đan áo để đến nỗi T.T.Kh. phải nặng lời:
Từ đây anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng, hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh...
Một người nghiêm túc như Thâm Tâm mà anh em văn nghệ thời trước từng quen biết, có thể có cử chỉ và lời thơ dễ dãi, vô ý thức như vậy không? Đó là sự đáng ngờ. Vì vậy, ngày Trần Huyền Trân còn chưa lâm bệnh nặng, tôi đã hai lần gặng hỏi anh về mối tình của Thâm Tâm và T.T.Kh. có thực có hay không? Và Trần Huyền Trân người bạn “nối khố” của Thâm Tâm, đã khẳng định là không từng nghe Thâm Tâm nói đến. Vậy người yêu đích thực của Thâm Tâm là ai? Có phải là T.T.Kh. như lâu nay nhiều người nghe nói? K... và T.T.Kh là một hay hai.

Có người nói: Vào thời thơ T.T.Kh. nổi lên như thế, có nhiều anh tự nhận là người yêu của họ, nên Thâm Tâm đã phải kêu cái tên Khánh lên rõ to, để mọi kẻ có ý đồ xấu phải im tiếng, và hiểu rằng “hoa kia đã có chúa xuân”.

Như vậy lại càng không đúng tư cách Thâm Tâm. Anh Vũ Cao là người cùng sống gần gũi nhất với Thâm Tâm khi làm báo Vệ quốc quân (sau là Quân đội Nhân dân) trong kháng chiến chống Pháp đã nói với tôi: “Thâm Tâm tính tình kín đáo, nghiêm túc đến nỗi chính vợ mình rất nể sợ. Phong cách làm việc của anh đúng mực đến nỗi anh em toà soạn phải noi gương “học tập Thâm Tâm”. Cho nên, một số bạn thơ văn, đích thực là bạn của Thâm Tâm thường nói: “Thâm Tâm qua đời lâu rồi, mà T.T.Kh. nếu còn sống cũng đã già lão quá rồi, nên để họ yên nghỉ với giá trị không thể chối cãi một thời của họ. Những danh nhân chết đi bao giờ chả để lại cho người sau vô số huyền thoại, cái đúng cái sai, cái “dởm”. Đó là vinh dự cho danh nhân, không phải vinh dự cho người muốn gắn tên tuổi mình vào hào quang của người đã khuất. Vũ Cao và Trần Cư, cùng làm báo quân đội với Thâm Tâm cho biết: ngay bài thơ Tống biệt hành, anh em nhắc đến, Thâm Tâm rất cảm động, nhưng vốn là người khiêm tốn, anh không thích kể đi kể lại, coi đó là tuyệt đỉnh của mình. Tiếc rằng anh “đi” sớm quá, giữa lúc anh còn muốn có những bài thơ mới, khác với hơi thơ cũ.

... Ông Vũ Bằng (vào quãng cuối tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy) di cư vào Sài Gòn có dựng đứng câu chuyện “Quang Dũng là con trai cụ Tản Đà” và nói về T.T.Kh., họ Vũ cũng chép tên thi sĩ Leiba vào, làm mọi người chả hiểu ra sao. Nhưng ai đã từng làm báo với họ Vũ cũng đều thuộc “ngón” làm ăn này của Vũ. Leiba (tức Lê Văn Bái) có thời gian ngắn làm báo Ích hữu (của Tân Dân) sau đó thi đỗ, làm ông phán toà sứ sơn Tây, rồi mất (1941). Leiba là lớp trước Thâm Tâm, không quen biết gì nhau. Đây chỉ là cách làm báo phao tin “giật gân” cho chạy báo.

Cũng cùng một loại phao tin “thất thiệt” đó tôi còn nghe một chuyến tức cười nữa là có người khẳng định người yêu của Thâm Tâm chính là cô em gái, cùng cha khác mẹ với nhà thơ Tế Hanh! Sự đồn đại chung quanh một tên tuổi đi vào lịch sử văn học, quả là phong phú.

Gần đây, trên một vài tờ báo ta đọc hằng ngày đều có những “thông tin” vô bằng cớ như trên. Những chuyện “nghe lỏm” rồi thêu dệt thêm tuỳ hứng. Như giai thoại về Nguyễn Tuân, về Vũ Trọng Phụng, về Quang Dũng, về Nguyễn Gia Trí, và Thanh Tịnh, v.v...

Buồn thay, lớp người 1930 - 1945 trong văn học, đã theo nhau “đi” gần hết. Còn sót lại có Lưu Trọng Lư, Bùi Hiển, Tô Hoài... “Nửa đêm chợt tỉnh”, anh Lư có còn nhớ nhiều không, với sức nhớ của người trên 70 rồi?

Viết đến đây, tôi muốn cung cấp để bạn đọc biết thêm ít chi tiết về T.T.Kh trước khi chấm dấu cuối cùng: Hồi 1937, tôi có nhận được một thư trả lời toà soạn Tiểu thuyết thứ bảy... của T.T.Kh. Tôi nhớ đại ý, người làm thơ không muốn cho địa chỉ - để chúng tôi gửi báo biếu, với lý do cuộc đời của mình “chả ra sao”. Bức thư đó, cũng như thư của bạn đọc hàng ngày gửi đến báo, ai giữ làm gì? Hơn nữa, hồi đó tôi còn trẻ, nên không mấy quan tâm đến chuyện các bà “phụ nữ làm thơ”. Nếu tôi là người mê thơ, mê người làm thơ như bây giờ, có lẽ bức thư kia còn lại đến ngày nay, cũng thành giá trị.

Còn chuyện nữa xin kể nốt:

Hồi làm báo Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà Nội, vì gia đình tôi ở thị xã Thanh Hoá, nên thời thường vẫn đi về, cũng như Nguyễn Tuân và Hồ Dzếnh có gia đình ở thị xã này.

Một hôm, tôi không có mặt ở nhà, thấy mẹ tôi bảo: “Có một người con gái đến chơi, không chịu nói tên, chỉ để lại một bó hoa ti-gôn rồi cáo lui”. Từ đó, không lần nào trở lại. Ai nhỉ? Tuổi tôi lúc đó cũng có đôi ba bạn gái, nhưng thời gian này, báo đã đăng mấy bài của T.T.Kh. rồi, vậy đó và người đã đọc truyện Hoa ti-gôn của tôi, hay đã yêu thơ T.T.Kh. mà tìm đến?

“... Ở lại vườn Thanh có một mình...” Có thể người này vốn là dân thị xã này hay chăng? Sao tôi không biết, không từng gặp? Lại nữa, nếu như có thực tên người yêu của Thâm Tâm là... Khánh, Trần Thị Khánh! thì bài thơ Các anh đã gọi toẹt ra rồi. Chỉ có tôi đến hôm nay là còn chưa rõ. Bạn đọc chú ý đến thơ T.T.Kh. và Thâm Tâm, người nào chả nói được, căn cứ theo lời kêu gọi trong thơ: “Khánh ơi!” còn hỏi gì anh?, Khánh ơi còn đợi gì anh?...” Chả là thầy bói cũng nói trúng tên: người ấy, T.T.Kh. (tức Khánh).

Năm tháng đã “cuốn theo chiều gió” bao chuyện vui buồn. Cái gì còn lại vẫn là tài năng, đức hạnh. Ngày nay còn có người nhắc đến T.T.Kh. là do sức sống của thơ. Có người thích thú tìm thấy 9 chữ thu trong hai bài thơ đầu (mùa thu tâm sự đầy khắc khoải). Có người điểm thấy ba chữ nghiêm trong thơ T.T.Kh. mà đoán rằng: nghiêm là tên chồng, hay là họ người luống tuổi của T.T.Kh? Lại có người nhấn mạnh mấy chữ, lúc thì tôi, lúc thì em trong thơ T.T.Kh. (vừa giận vừa thương của một tấm lòng tha thứ, khi thấy người yêu làm vỡ lở tình duyên cũ).

Riêng tôi, đọc lại thơ T.T.Kh. tôi ngạc nhiên thấy phong cách thơ bà này khác xa thơ của ba ông bạn Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân cùng thời. Thơ T.T.Kh. không có những chữ “Ly khách, cửa ải xa, xóm thanh bình, trường thành, quan san, trường đình, thét roi, cô phụ, đoạn trường... (Thâm Tâm); hay rau tần, ngõ trúc, tương tư, giang hồ, nhân thế, biển dâu, khóm trúc phong ba, hoạ đèn, giọt dòng, lưu biệt, thiên thu, tích liêu, v.v... (Trần Huyền Trân); hay vương tơ, Lão bộc, vật đổi sao rời, quay tơ, guồng tơ, hận tình, buồng the v.v... (Nguyễn Bính). Thơ T.T.Kh. kể chuyện mình một cách giản dị, không sáo ngữ, lúc thì thanh minh “Ba năm ví biết anh còn nhớ, Em đã câm lời có nói đâu”, lúc lại trách người “mang cánh ti-gôn ấy, mà viết tình em được ích gì”, rồi lại tự than: “Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết, Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa...” Sực nhớ việc mình đi lấy chồng đã 3 năm, lại hối: “Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng, Trời ơi người ấy có buồn không?”...

Thơ T.T.Kh. không cố tìm chữ lạ, không làm dáng, nên dễ đi vào lòng người, nhất là lòng bạn gái cùng cảnh ngộ. Luyến tiếc thời ngây thơ con gái, lắng tiếng lá thu rơi mặt hè, tưởng như bước chân người yêu trở lại, càng lo sợ. Tả cái giận, nói được nỗi lòng yếu đuối của mình đối với người yêu mà mình không rứt được... thật chân thành.

Từ năm 1937 đến năm 1938, để lại ba bài thơ chuyên tả tâm sự mình mà người đọc không chán. Đó là đặc điểm của thơ T.T.Kh.

T.T.Kh. là ai?

Có lẽ ta cũng cần biết rõ đó là ai? Một người phụ nữ vào thời đó làm thơ, đã theo kịp trào lưu thơ mới, là điều đáng trọng. Tôi không tin rằng ai đó tìm ra bà - nếu bà còn, đã đáng bậc bà - không thể được bà sẵn lòng tiếp đón. Một người đã cố tình quên đi, đào sâu chôn chặt mối tình đau xót, bất hạnh nhất của mình (mà đã có những bài thơ như thế, chỉ bộc lộ một lần rồi dập tắt) hẳn không giống kẻ kém tài kém đức chỉ mong có nổi một bài thơ tình được đăng lên báo, vì danh hay vì lợi.

Với sự trân trọng một tài năng, một tâm hồn phụ nữ hiếm hoi trong quá khứ, chúng tôi viết bài này và đề nghị cho in lại ba bài thơ độc nhất của bà, để chúng ta cùng thưởng thức.


Mùa thu 1990
Thanh Châu
Con người sinh ra là để được lớn khôn cũng như loài chim trời sinh ra là để được bay cao.
hoalucbinh
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

T.T.Kh. là ai?

T.T.Kh. với những câu thơ xót xa cảm động:

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Và từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người...
Vậy T.T.Kh. là ai? Nam hay nữ? Bút danh này chỉ thấy ghi ở ba bài thơ đăng trong Tiểu thuyết thứ bảy và một bài trên báo Phụ nữ, rồi thôi, không thấy xuất hiện nữa.

Ông Hoài Thanh, năm 1941, có soạn cuốn Thi nhân Việt Nam cũng trích dẫn T.T.Kh. với lời ghi chú: “Sau khi bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao, có đến mấy người nhất quyết T.T.Kh. chính là người yêu của mình. Và người ta đã phê bình rất náo nhiệt. Có kẻ không ngần ngại cho những bài ấy là những áng thơ kiệt tác...”.

Hôm nay, xin công bố với bạn đọc, một thông tin chúng tôi được biết về T.T.Kh. Người kể còn sống, mà T.T.Kh. cách đây bốn năm vẫn còn gặp. Chúng tôi thấy, cần phải công bố ngay vì nó có lợi cho việc làm văn học sử sau này.

Số là vào dịp hội đền Bà Tấm năm nay (Kỷ Tỵ, 1989), chúng tôi rủ nhau sang Phú Thuỵ dự hội. Cùng đi có nhà thơ Lương Trúc, năm nay đã 74 tuổi (tên thật là Phạm Quang Hoà), bạn thân với các nhà thơ Thâm Tâm, Nguyễn Bính và Trần Huyền Trân. Chính bài Tống biệt hành Thâm Tâm viết tặng Phạm Quang Hoà. Nguyễn Bính cũng có bài thơ tặng Phạm Quang Hoà mở đầu bằng hai câu:
Tôi và anh: Bính và Hoà
Ở đây xa chị, xa nhà, xa em...
Và kết thúc bằng hai câu:
Đây là giọt lệ phân ly
Ngày mai tôi ở, anh đi, bao giờ?...
Nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu, và tất nhiên ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm về họ tên tác giả Hai sắc Hoa ti-gôn được công bố dưới đây. Cùng nghe hôm đó với tôi có nhà thơ Trần Lê Văn và nhà thơ Tú Sót.

T.T.Kh. tên thật là Trần Thị Khánh, người yêu của Thâm Tâm. Hai người yêu nhau, nhưng biết không lấy được nhau, hẹn giữ kín mối tình, để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này. Cô Khánh đọc Tiểu thuyết thứ bảy in truyện ngắn Hoa ti-gôn của Thanh Châu (số tháng 9-1937) xúc động, tự thổ lộ câu chuyện riêng bằng bài thơ Hai sắc hoa ti-gôn và gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy.

Bài thơ in ra đã gây xôn xao trong làng văn chương như ông Hoài Thanh ghi nhận. Tiếp đó để giải thích lý do viết bài Hai sắc hoa ti-gôn, T.T.Kh. gửi đến Tiểu thuyết thứ bảy một bài nữa, với tiêu đề là Bài thơ thứ nhất và viết riêng gửi tặng Thâm Tâm bài thơ Đan áo.

Lại càng xôn xao, nhiều người cho là nam giới giả danh, nhiều người nhận là người yêu của mình, trong số này có nhà thơ Nguyễn Bính.

Thâm Tâm hồi ấy còn trẻ, với tính hiếu thắng của tuổi trẻ, ông đã gửi báo Phụ nữ đăng bài thơ Đan áo để minh chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh. chính là người yêu của mình. Tất nhiên không có sự đồng ý của T.T.Kh.

Và thế là T.T.Kh. giận, cô viết bài thơ lấy tiêu đề Bài thơ cuối cùng gửi đăng ở Tiểu thuyết thứ bảy, vừa hờn vừa giận đầy yêu thương, và cũng từ đấy T.T.Kh. “tắt lịm” trên thi đàn.

Sau này, Thâm Tâm có viết một bài thơ dài để trả lời T.T.Kh. bài Các anh, (tập thơ mới của Thâm Tâm, nhà xuất bản Văn học 1987, có in bài Các anh nhưng đây chỉ mới trích một phần).

Lời bàn: có người viết hàng trăm bài thơ, in hơn chục tập thơ, mà không gây được một vang hưởng nào trong nghệ thuật thơ. T.T.Kh. viết bốn bài thơ, có bài đã gây được vang hưởng.

Thơ hay đâu có cần nhiều.

Phê-lích Ác-ve (Félix Arvers, 1806-1850) chỉ nhờ bài Tình tuyệt vọng mà tên tuổi được ghi trong văn học sử Pháp. Mới hay trong “lãnh địa” nghệ thuật, số lượng chỉ là cái không đáng kể. T.T.Kh. cần phải được xem xét và đánh giá như một tác giả của dòng thơ lãng mạn trước Cách mạng tháng Tám. Điều đó không có gì là quá đáng.

Được biết T.T.Kh. về sống ở Thanh Hoá đã bốn năm nay, không biết bây giờ bà con hay mất, nhưng cứ xin phép cho chúng tôi được công bố điều bí mật trên vì nghĩ rằng:

Thời gian qua đi đã dài, nhà thơ Thâm Tâm đã mất, ông nhà cũng đã quy tiên. Vả lại, cũng vì công việc của văn học sử, nếu đã tìm ra được tác giả của một tác phẩm nổi tiếng thì dù đắn đo đến đâu rồi cũng phải công bố.


Hoàng Tiến

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Con người sinh ra là để được lớn khôn cũng như loài chim trời sinh ra là để được bay cao.
hoalucbinh
15.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Nữ thi sĩ tài hoa T.T.Kh.

Những bài thơ tình của nữ thi sĩ tài hoa T.T.KH đã xuất hiện lần đầu từ tháng 10/1937 đến tháng 7/1938 trên tuần báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy (xuất bản ở Hà Nội) và tờ Phụ Nữ Thời Đàm (cũng xuất bản ở Hà Nội). Cho đến nay, đã gần 68 năm - hơn nữa thế kỷ, nhưng thơ của T.T.KH vẫn còn vang mãi trong lòng người yêu thơ, nhất là lĩnh vực nghệ thuật, vẫn giữ nguyên giá trị độc sáng của thơ ca tiền chiến mở đầu cho một giai đoạn đổi mới sau này.

T.T.KH chỉ xuất hiện ở một khoảng thời gian rất ngắn (chưa đầy một năm) trên 2 tờ báo. Và chỉ với 4 bài thơ thôi, nhưng kể từ ấy (1937) đã nảy sinh nhiều giai thoại, nhiều tranh luận, nhiều tác phẩm, bài báo thảo luận xung quanh cái bút danh bí ẩn viết tắc T.T.KH: T.T.KH là ai? Ai là người tình được T.T.KH nhắc tới trong 4 bài thơ bất hủ của nữ sĩ? Cuộc tình dở dang của họ đã xảy ra như thế nào? Hiện nay bà đã chết hay còn sống? T.T.KH là Trần Thị Khánh? Là Tào Thị Khê? Là Trần Thị Khải? Hay Thái Thị Khương? Chưa ai rõ...?

Để có cái nhìn khái quát về những diễn biến của các cuộc khám phá, tranh luận, nghiên cứu từ hơn 60 năm qua, chúng tôi chỉ xin tóm lược những nét chính:

Theo Hoài Thanh - Hoài Châu (trong Thi Nhân Việt Nam 1942) thì: “... Toà báo nhận được bài thơ “Hai sắc hoa Tigôn”, sau đó là bài “Bài thơ Thứ Nhất” đều có chung nét chữ run run. Từ đấy, Toà soạn Tiểu Thuyết Thứ Bảy không nhận thêm, và không biết rõ T.T.KH ở đâu? Và “Sau khi các bài thơ kia đăng rồi, các nhà văn bỗng xôn xao, có đến mấy người nhất quyết T.T.KH!” là người yêu của mình.

Trong số các nhà văn, nhà thơ “tự nhận” là người yêu của T.T.KH có Thâm Tâm (Nguyễn Tuấn Trình), Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân, Thanh Châu, J. Leiba... và họ đã làm thơ đăng báo, công khai đề: “Tặng T.T.KH”, khiến dư luận càng xôn xao, và mờ mịt hơn.

Bên cạnh một số người “trong cuộc” lên tiếng (bằng thơ), có các nhà nghiên cứu, phê bình văn học cũng đã bỏ nhiều công sức, giấy mực để “quyết tìm cho ra” lý lịch, tông tích, đời sống ở quá khứ và hiện tại của nữ sĩ ẩn danh tài hoa T.T.KH. Đó là Hoài Thanh, Hoài Châu (VN Thi Nhân 1942), “T.T.KH là ai?” của Hoàng Tiến (1989), “Ghi thêm về Thâm Tâm và T.T.KH” của Mã Giáng Lân (1990), “Nói thêm về T.T.KH” của Thanh Châu (1990),“Thâm Tâm và T.T.KH” của Thế Phong, “Thâm Tâm và sự thật về T.T.KH” của Nguyễn Vỹ (1970), “Thơ T.T.KH ở nước ngoài”...

Gần đây, tháng 10/1994, nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin có cho xuất bản tập sách có tên “T.T.KH, Nàng là ai?” của tác giả Thế Nhật. Chúng tôi “tạm thời” ghi lại “lý lịch” của T.T.KH theo công bố của Thế Nhật: “T.T.KH tên khai sinh và thẻ căn cước là Trần Thị Chung (tên thường gọi là Trần Thị Vân Chung), sinh ngày 25/8/1919 ở Thị xã Thanh Hoá trong một gia đình quan lại. Bố mẹ Vân Chung có năm người con, ba gái, hai trai - Bà là trưởng nữ. Năm 1934, qua mai mối đã thuận gả chồng, cưới vợ. Chồng là luật sư Lê Ngọc Chấn, làm Tri huyện. Sau năm 1954, ông ở miền Nam (...). Năm 1986, ông Lê Ngọc Chấn qua đời ở Sài Gòn. Sau đó, bà cùng các con xuất cảnh sang Pháp. Hiện bà sống ở Dordogne miền Đông Nam nước Pháp (...).

Sau đây là nguyên văn 4 bài thơ tình bất hủ nổi tiếng của T.T.KH:

HAI SẮC HOA TIGÔN

Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn,
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu thương!

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dãi đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương cát,
Tay vít dây hoa trắng cạnh lòng...

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui;
Bảo rằng: Hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!

Thuở đó nào tôi đã hiểu gì,
Cánh hoa tan tác của sinh ly,
Cho nên cười đáp: “Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy!”

Đâu biết lần đi một lỡ làng,
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá, tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường.

Từ đó thu rồi, thu lại thu,
Lòng tôi còn giá đến bao giờ?
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ,
Người ấy cho nên vẫn hững hờ!

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi;
Mà từng thu chết, từng thu chết,
Vẫn dấu trong tim bóng “một người”!

Buồn quá! Hôm nay xem Tiểu Thuyết,
Thấy ai cũng vì cánh hoa xưa;
Nhưng hồng, tựa trái tim tan vỡ,
Và đỏ như màu máu thắm pha.

Tôi nhớ lời người ta đã bảo tôi,
Một mùa thu trước rất xa xôi...
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu nắng phớt mờ,
Chiều thu hoa rụng đỏ, chiều thu...
Gió về lạnh lẽo, chân mây vắng,
Người ấy sang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?

T.T.KH
(Tiểu Thuyết Thứ Bảy
ố 179, ngày 30/10/1937)
BÀI THƠ THỨ NHẤT

Thuở trước hồn tôi phơi phới quá,
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương...
Nhưng mà nghệ sĩ từ đâu lại,
Êm ái trao tôi một vết thương!

Tai ác ngờ đâu gió lại qua,
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa,
Thổi tan âm điệu du dương trước,
Và tiễn người đi bến cát xa...

Ở lại vườn Thanh có một mình,
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh.
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo,
Yêu nắng chia xa, nắng lướt mành!

Và một ngày kia tôi phải yêu,
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo,
Những cô áo đỏ sang nhà khác,
Gió hỡi, làm sao lạnh rất nhiều!

Từ đấy không mong, không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm,
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ,
Người ấy ghi lòng: “Vẫn nhớ em”!

Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên,
Bỗng ai mang lại cánh hoa tim...
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ,
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên!

Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ,
Đã bạc hoa tàn dấu xác xơ.
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ,
Thì ai trông ngóng, chẳng nên chờ!

Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá,
Vì tôi vẫn nhớ hẹn nhau xưa!
- “Cố quên đi nhé, câm mà nín,
Đừng thở than bằng những giọng thơ!”

Tôn run sợ viết, lặng im nghe,
Tiếng lá thu khô siết mặt hè...
Như tiếng chân người len lén đến,
- Song đời nào dám hẹn ai về?

Tuy thế tôi tin vẫn có người,
Thiết tha theo đuổi nữa, than ôi!
Biết đâu... tôi: Một tâm hồn héo,
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi!

T.T.KH
(Tiểu Thuyết Thứ Bảy
Số 182, ngày 20/11/1937)
ĐAN ÁO CHO CHỒNG

Chị ơi, nếu chị đã yêu,
Đã từng gặt hái ít nhiều đau thương...
Đã xa hẳn quảng đời hương,
Đã đem lòng gởi gió sương mịt mùng!
Biết chăng chị? Mỗi mùa đông,
Đáng thương những kẻ có chồng như em!
Vẫn còn thấy lạnh trong tim,
Đan đi đan lại áo len cho chồng...
Như con chim hót trong lồng,
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ phờ!
Tháng ngày nổi tiếng tiêu sơ,
Than ôi! Gió đã sang bờ ly tan...

Tháng ngày miễn cưỡng em đan,
Kéo dài một chiếc áo len cho chồng.
Như con chim nhốt trong lồng,
Tháng ngày mong đợi ánh hồng năm nao.
Ngoài trời mưa gió xôn xao,
Ai đem khoá chết chim vào lồng nghiêm?
Ai đem lễ giáo giam em,
Sống hờ trọn kiếp trong duyên trái đời?
Lòng em khổ lắm chị ơi!
Trong bao tủi cực với lời mỉa mai...
Quang cảnh lạ, tháng năm dài...
Đêm đêm nghĩ đến ngày mai giựt mình!

T.T.KH
(Báo Phụ Nữ Thời Đàm - 1937)
BÀI THƠ CUỐI CÙNG

Anh hỡi! Tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ, một lòng đau...
Ba năm ví biết anh còn nhớ,
Em đã câm lời, có nói đâu?

Đã lỡ, thôi rồi! Chuyện biệt ly,
Càng khơi càng thấy luỵ từng khi...
Trách ai đem cánh “Tigôn” ấy,
Mà viết tình em được ích gì?

Chỉ có ba người đã đọc riêng,
Bài thơ “Đan áo của chồng em”,
Bài thơ đan áo nay rao bán,
Cho khắp người đời thóc mách xem...

Là giết đời nhau đấy biết không?
... Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung,
Giận anh em viết dòng dư lệ,
Là chút dư hương! Điệu cuối cùng!

Từ đây, anh hãy bán thơ anh,
Còn để yên tôi với một mình...
Những cánh hoa hồng, hừ đã ghét,
Thì đem mà đổi lấy hư vinh!

Ngang trái đời hoa đã úa rồi,
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi...
Buồn nghiêm thơ thẩn hồn eo hẹp,
Đi nhớ người không muốn nhớ lời!

Tôi oán hờn anh, mỗi phút giây...
Tôi run sợ viết, bởi rồi đây,
Nếu không yêu được thì tôi... chết!
Đêm hỡi làm sao tối thế này?

Năm lại năm qua cứ muốn yên,
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên,
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín...
Lại chính là Anh? Anh của em!

Em biết làm sao được, hỡi trời?
Giận anh, không nỡ, nhớ không thôi,
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt...
Sợ quá đi anh! “Có một người”.

T.T.KH
(Tiểu Thuyết Thứ Bảy
Số 217, ngày 23/7/1938)

Nhiều người thích 8 câu thơ của T.T.KH.
Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa... vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?

Người ấy thường hay vuốt tóc tôi,
Thở dài trong lúc thấy tôi vui;
Bảo rằng: Hoa dáng như tim vỡ,
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi!
Nữ thi sĩ tài hoa T.T.KH để lại những bài thơ tình hay có giá trị.

ĐỌC THƠ T.T.KH CẢM TÁC

Nàng là người đẹp xứ Thanh (Hoá)
Tuổi Xuân phơi phới tâm tình mênh mang
Gặp chàng nghệ sĩ lang thang
Chiều Thu duyên sớm bẻ bàng chiều Thu
Lỡ duyên - số phận mịt mù...
Tigôn hoa máu, trời Thu lệ nhoà!
“Bài thơ Thứ Nhất” chia xa
“Bài thơ Đan Áo” đông qua úa tàn!
Tâm tình phong kín quan san,
Thơ đăng mặt báo phủ phàng đời hoa.
Ôi thiên tình sử - bi ca:...
Tháng năm, rồi lại ngày qua lạnh lùng!
“Bài thơ cuối” cuộc tình chung.
T.T.KH mịt mùng - Từ đây!
Sáu mươi năm - tìm bóng người.
Còn thơ sáng mãi bên trời yêu thương!


Thanh Tùng
(Tháng 7 năm 2005)
Con người sinh ra là để được lớn khôn cũng như loài chim trời sinh ra là để được bay cao.
hoalucbinh
25.00
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Ghi thêm về Thâm Tâm và T.T.KH

40 năm nay, nhà thơ Thâm Tâm đã là “người trong cõi nhớ”. Bạn bè đồng nghiệp của ông như Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Trần Độ, Tô Hoài... đã nhớ và kể lại cuộc đời hoạt động và sáng tác văn thơ của ông với một tình cảm chân thành trân trọng.

Thế nhưng nói đến Thâm Tâm, nhiều người nghĩ ngay đến T.T.Kh. T.T.Kh. là ai? Là người yêu của Thâm Tâm? T.T.Kh. chính là Thâm Tâm? Giữa T.T.Kh. và Thâm Tâm vào những năm 1937-1940 với những bài thơ tình tuyệt vời đã làm cho tên tuổi nhà thơ và nữ sĩ ấy vang vọng mãi trên thi đàn.

Những năm sau này, những đợt sóng, những luồng dư luận khác nhau về nghi vấn văn chương này vẫn dội lên. Một trong những chứng nhân quan trọng để làm rõ vấn đề là Thâm Tâm thì nhà thơ đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1950... Ở Sài Gòn trước đây, nhất là năm 1970 người ta không ngớt tung ra những huyền thoại về Thâm Tâm và T.T.Kh. Vũ Bằng là người giỏi bịa chuyện đã làm rùm beng một dạo để tỏ mình là người từng trải, là người hiểu biết. Và trong những dịp ấy nhiều người cũng nhảy ra “ăn theo, bởi vì họ chỉ biết qua nghe, rồi nhặt nhạnh, thêm bớt, viết thành bài làm sang. Báo chí Sài Gòn lúc đó còn công bố thêm nhiều bài thơ giả cũng ký tên là T.T.Kh.

Hai năm nay, khi tập thơ Thâm Tâm ra đời, sự mến mộ của người đọc đối với nhà thơ được khẳng định thêm. Và lại xuất hiện trên báo chí những bài thơ viết say sưa đến quá nhiệt tình. Anh Hoàng Tiến viết liền hai bài. Một bài thơ đăng trên Nhân dân chủ nhật (số 23 tháng 7-1989) kể về T.T.Kh. Anh còn nói bài thơ Các anh in trong tập thơ Thâm Tâm là trích một bài đăng ở Người Hà Nội (2-9-1989) để cung cấp bản đầy đủ Tống biệt hành của Thâm Tâm. Tư liệu anh có là từ nguồn nghe. Hai lần ở hai bài anh đều nói anh “may mắn” được gặp, được nghe cụ Lương Trúc, nhà thơ, bạn Thâm Tâm kể. Anh Hoàng Tiến nói: “Vì trách nhiệm của công việc khảo cứu và biên soạn, cũng như lợi ích của việc làm văn học sử sau này nên anh xin phép nhà thơ Lương Trúc cho công bố toàn bộ bài Tống biệt hành của Thâm Tâm. Đấy là một việc cần thiết và bổ ích (nếu như nghiêm túc, khoa học), chỉ tiếc một điều bằng lối văn lộng ngữ Hoàng Tiến đã đưa ra những nghi ngờ, những điều không có căn cứ. Vậy theo đó mà viết văn học sử, mà khảo cứu thì giấy mực đâu in cho xuể.

Trước khi nói về T.T.Kh, tôi xin có mấy đính chính ở một bài viết ngắn của Hoàng Tiến khi công bố bài Tống biệt hành.

Tập thơ Thâm Tâm do Nhà xuất bản Văn học in năm 1987 sao anh nói là Nhà xuất bản Giáo dục?

Giữa năm 1950 Thâm Tâm đi chiến dịch, làm báo mặt trận và hy sinh ở gần biên giới vì cơn bệnh tai ác, anh chỉ ghi nơi hy sinh: “Ở rừng Việt Bắc”.

Đúng là bài Tống biệt hành có một khổ cuối nữa mà Thi nhân Việt Nam cũng như Thơ Thâm Tâm không đưa vào. Khổ thơ đó như sau:

Mây thu đầu núi, gió lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm
Ly khách ven trời nghe muốn khóc
Tiếng đời xô động tiếng hờn căm.
Còn khổ thơ mà anh cung cấp cho bạn đọc là:
Mây thu đầu núi gió lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đã đổ thầm
Ngừng ở ven trời nghe tiếng khóc
Tiếng đời xô động tiếng lòng căm.
Tôi thì cho khổ thơ trên chính xác hơn vì đã in trên báo Tiểu thuyết thứ bảy năm 1940.

Bài Các anh trong tập Thơ Thâm Tâm chỉ có 16 câu (4 khổ) lấy trọn vẹn từ báo Tiểu thuyết thứ bảy ngày 4-5-1940 Hoàng Tiến nghe đâu mà bảo đó chỉ là trích đoạn. Chắc anh tin vào ai đó đã đưa in trên Văn nghệ và nói rằng đây là bài thơ của Thâm Tâm, không có đề, mà ở đây thực ra mở đầu là 8 câu trên và kết thúc là 8 câu sau của bài Các anh, còn ở giữa là 56 câu khác không ăn nhập gì với kết cấu toàn bài. Vẫn bài thơ dài này cộng cả 64 câu, ông Nguyễn Tấn Long trong Việt Nam thi nhân tiền chiến in ở Sài Gòn năm 1968 lại đặt tên là Gửi T.T.Kh. Có lẽ cũng nghe ai nói rồi ghi lại.

Trở lại câu hỏi T.T.Kh. là ai? Tôi xin mách: Thanh Châu chính là người khơi nguồn thiên tình hận này. Năm 1937Tiểu thuyết thứ bảy đăng truyện ngắn Hoa ti-gôn của Thanh Châu kể lại mối tình ngang trái giữa chàng nghệ sĩ và thiếu nữ Mai Hạnh. Họ đã gặp nhau dưới hoa ti-gôn. Nàng sợ bố mẹ khổ tâm, sợ tai tiếng ở đời nên không dám bỏ nhà đi với người yêu - Nàng phải sống gượng ép với một người chồng. Ít ngày sau toà soạn báo nhận được hai bài thơ Bài thơ thứ nhất và Hai sắc hoa ti-gôn của T.T.Kh. Khi hai bài thơ này được đăng, nhiều người nhận T.T.Kh. là người yêu của mình như Nguyễn Bính, J.Leiba, Thâm Tâm đã làm mấy bài thơ đáp lại tiếng lòng của thiếu nữ, giải bày tâm trạng đau đớn của mình. Trong nhiều bài thơ của Thâm Tâm thường thấy xuất hiện cái màu hoa, dáng hoa ti-gôn “như tim vỡ”.

Trong bài T.T.Kh. là ai? Hoàng Tiến viết T.T.Kh. “về sống ở Thanh Hoá đã bốn năm nay, không biết bà còn hay mất”, cụ Lương Trúc đã có dịp gặp đôi ba lần? Sự thật theo tôi, 50 năm nay đã rồi, T.T.Kh. đến nay vẫn còn là “ẩn số”. Một hồn thơ đầy xúc cảm, một con người cao thượng nói lên nỗi đau đớn của mình một cách tuyệt vời mà lại âm thành, mai danh ẩn tích, để lại cho đời, cho giới mày râu cầm bút biết bao bàng hoàng thương cảm, mến phục.

Một điều cần chú ý: Trước kia bà Thâm Tâm sống và học ở Thanh Hoá, khi xây dựng gia đình với Thâm Tâm thì ở Hà Nội và những năm kháng chiến chống Pháp lại ở Thanh Hoá mãi đến năm 1950 khi nhà thơ hy sinh, bà mới cùng bé Nguyễn Tuấn Khoa, con trai duy nhất lặn lội ra Việt Bắc, bà Thâm Tâm hiện nay vẫn đang ở Hà Nội.

T.T.Kh. là ai? Là Trần Thị Khánh, là Thâm Tâm - Khánh là Tuấn Trình - Khánh (vì tên thật là Thâm Tâm là Nguyễn Tuấn Trình)... Theo Việt Nam thi nhân tiền chiến (Sài Gòn 1968) có người còn nói T.T.Kh. chính là Trần Thị Khánh, người em gái đồng tông với nhà thơ Tế Hanh ở Thanh Hoá vân vân và vân vân. Tôi có thể nêu lên rất nhiều những huyền thoại huyễn hoặc nữa xung quanh cái tên T.T.Kh. này.

T.T.Kh. là ai? Là một thiếu phụ, nhưng chưa bao giờ xuất đầu lộ diện. Chỉ lộ ra cái tên T.T.Kh. Cái tên Trần Thị Khánh cũng là do suy luận, đoán. Theo tôi mọi cái tên diễn dịch, khẳng định ở trên đều là của giả. Ngay cả hai bài thơ tiếp sau là Đan áo cho chồng và Bài thơ cuối cùng dù được ký tên là T.T.Kh. cũng rất có thể là của giả, bởi vì xét về ý tứ, nghệ thuật thơ cũng có những mâu thuẫn, những điểm đáng ngờ.


Mã Giang Lân

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Con người sinh ra là để được lớn khôn cũng như loài chim trời sinh ra là để được bay cao.
hoalucbinh
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Thơ T.T.Kh sự thật hay huyền thoại?

Từ hồi còn nhỏ tôi đã được hân hạnh quen biết các nhà thơ Thâm Tâm, Trần Huyền Trân. Tôi đã thuộc lòng hầu hết thơ của các ông, và được các ông kể cho nghe nhiều chuyện liên quan đến văn học, nhưng tuyệt nhiên không một lần nào nói về lai lịch của T.T.Kh. Ngay cả sau khi cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời, có in cả thơ Thâm Tâm, Trần Huyền Trân và bài thơ mang tên T.T.Kh. các ông cũng không hề nói đến chuyện ấy. Trong Thi nhân Việt Nam viết về T.T.Kh. như sau: “Hồi tháng 9-1937, Tiểu thuyết thứ bảy đăng một truyện ngắn của ông Thanh Châu: “Hoa ti-gôn”. Ít ngày sau toà báo nhận được bài thơ nhan đề: -”Bài thơ thứ nhất”. Rồi lại nhận được một bài nữa: “Hai sắc hoa ti-gôn”. Hai bài đều ký T.T.Kh. và đều một nét chữ run run. Từ đấy toà soạn Tiểu thuyết thứ bảy không nhận được bài báo nữa và cũng không biết T.T.Kh. ở đâu. Nhưng đến khi bài thơ kia đăng rồi, xóm nhà văn bỗng xôn xao. Có mấy người nhất quyết T.T.Kh. chính là người yêu của mình. Và người ta đã phê bình rất náo nhiệt...”

Sở dĩ Hoài Thanh viết như vậy vì có nhiều người làm thơ hưởng ứng thơ T.T.Kh. J.Leiba cho đăng lại bài thơ “Hai sắc hoa ti-gôn” trên và viết mấy câu cảm đề phía dưới như sau:

Anh chép bài thơ tự trái tim
Của người thiếu phụ lỡ làng duyên.
Lời thơ tuyệt vọng ca đau khổ
Yên ủi anh và để tặng em.
Nguyễn Bính làm bài thơ “Dòng dư lệ”, phía trên có trích hai câu thơ T.T.Kh. trong bài thơ “Bài thơ thứ nhất” làm đề từ:
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Trong bài thơ Nguyễn Bính có nhắc đến Vườn Thanh cũng là lấy từ câu thơ T.T.Kh: Ở lại Vườn Thanh có một mình.

Nhưng vườn Thanh ở đâu? Theo nhà thơ Nguyễn Vỹ một bạn thơ của Thâm Tâm từ trước 1945, thì đó là vườn trong ngôi nhà phố Thanh Giám, sau là Văn Miếu, Hà Nội.

Thâm Tâm cũng làm bài thơ “Các anh” đăng Tiểu thuyết thứ bảy, số 307, ngày 4-5-1940, nguyên văn như sau:
Các anh hãy uống thật say
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im
Giờ hình như quá nửa đêm
Lòng đau, đau lại cái tin cuối mùa
Hơn đàn buồn như trời mưa
Các anh tắt nốt âm thừa đi thôi
Giờ hình như ở ngoài trời
Tiếng xe đã nghiến đường rời rã đi
Tâm tình anh nhạt đâu nghe
Tiếng mùa lá chết đã xê dịch nhiều
Giờ hình như gió thổi đều,
Những loài hoa máu đã gieo nốt đời
Bao nhiêu nghệ sĩ nổi trôi,
Sá chi cái đẹp dưới trời mong manh
Sá chi những chuyện tâm tình
Lòng đau đem chứa trong bình rượu cay!
Năm 1951, nhân làm công tác địch vận và quân báo của Liên khu III, tôi vào nội thành Nam Định hoạt động, ngẫu nhiên được đọc một bài báo của Anh Đào, đăng trên một tập san của Hà Nội tạm chiếm, tôi xiết bao kinh ngạc khi thấy trong đó có kể tường tận về mối tình giữa Thâm Tâm và T.T.Kh. (Ông Anh Đào bảo đó là tên viết tắt của Thâm Tâm và Khánh) riêng bài thơ “Các anh” của Thâm Tâm bị chép sai 2 câu (lòng đau đau lại cái tim cuối mùa, bị chép là: cái tin cuối mùa; Tâm tình lạnh nhạt đâu nghe, bị chép là: tâm hồn lạnh nhạt đêm nghe). Bài thơ còn bị kéo dài thêm 48 câu nữa, lời thơ rất dở không xứng với tài thơ của Thâm Tâm. Hình như tác giả bài báo cố tình bịa ra để gán cái tên Khánh vào trong bài, nhằm chứng minh T.T.Kh, tên thật là Khánh:
Miệng chồng Khánh gắn trên môi,
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ...
... Khánh ơi! Còn hỏi gì anh...
Tác giả bài báo còn bịa ra những bài thơ như “màu máu ti-gôn” bảo Thâm Tâm, trong đó có những câu như:
K. hỡi, người của tôi ơi,
Nào ngờ em giết chết một đời,
Dưới mồ đau khổ anh ghi nhớ,
Hình ảnh em hoài, mãi thế thôi!
Những câu thơ “con cóc” như thế dám cả gan gán cho Thâm Tâm hay sao? Chưa hết, bài “Dang dở” còn có những câu:
Thôi em nhé, từ đây anh cất bước
Em yên lòng vui hưởng cuộc đời vui
Đừng buồn thương nhớ tiếc hoặc ngậm ngùi
Muôn việc thảy đều do nơi số kiếp.
Nên nhớ: Thâm Tâm không hề làm thơ tám chữ bao giờ cả?


Tháng 3-1994
Hoài Anh
Con người sinh ra là để được lớn khôn cũng như loài chim trời sinh ra là để được bay cao.
hoalucbinh
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook
Ảnh đại diện

Giải mã nghi án T.T.Kh. của Trần Đình Thu - Chưa rõ đúng sai nhưng chắc là phạm luật

Hơn 60 năm trôi qua những câu thơ:

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo cuả chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim một bóng người.
..........................................
... cái tên T.T.KH vẫn còn là một nghi vần để hôm nay, năm 2007, người ta lại có dịp được “thưởng thức” tài “giải mã” văn (g) học của nhà giải mã Trần Đình Thu mà ngay trang bìa 4 cuốn sách với những hàng chữ:

“Năm 1994 một người cung cấp cho ông Thế Phong một thông tin mật”: T.T.Kh chính là bà Trần Thị Vân Chung hiện sống ở Pháp. Thông tin ngắn ngủi và không có bằng chứng nhưng ông Thế Phong đã viết thành một cuốn sách với tựa đề hấp dẫn: T.T.Kh nàng là ai? Khi cuốn sách phát hành, bà TTVChung công khai phủ nhận, cho rằng mình không phải là T.T.Kh.

Năm 2004, tác giả Trần Đình Thu lật giở toàn bộ tư liệu liên quan để xem lại. Thật bất ngờ (ông TĐT chỉ cần lật giở toàn bộ tư liệu đã có sẵn là giải mã ngay chóc! tài thật) khi kết quả giải mã của ông trùng khớp với thông tin được tiết lộ trước đây. (thông tin nào trước đây, thưa ông TĐT?) “T.T.Kh chỉ có thể là Trần thị Vân Chung”. Đó chính là những gì được trình bầy trong sách bạn cầm trên tay - (Sách do NXB Văn hoá Saì Gòn và Cty Cadasa thực hiện xuất bản, phát hành tại Tp HCM quý 1/2007. Sách dầy 192 trang, khổ 13x19cm, giá bán 23000 VNĐ - “tác giả” Trần Đình Thu.).

Chỉ với những dòng chữ trên đây người đọc đã cảm thấy có điều gì rối rắm mập mờ trong công cuộc “giải mã vĩ đại “của nhà giải mã TĐT: lập luận ở trên thì vào năm 1994 với thông tin ngắn ngủi và không có bằng chứng nhưng ông Thế Phong đã viết thành một cuốn sách với tựa đề hấp dẫn: T.T.Kh nàng là ai?, nhưng lập luận ở dưới: Năm 2004 (1994-2004), tác giả Trần Đình Thu lật giở toàn bộ tư liệu liên quan để xem lại.... (hồ sơ tư liệu nào để ông lật giở thưa ông TĐT??? phải chăng là hồ sơ tư liệu lấy từ “thông tin ngắn ngủi và không có bằng chứng” trong phần Phụ Lục quyển sách T.T.K.H NÀNG LÀ AI? của - Thế Nhật - NXB Văn Hoá Thông Tin Hà Nội 1994)

Sự luộm thuộm, dấu đầu hở đuôi trong công trình giải mã, lật giở hồ sơ tư liệu của ông TĐT lại thấy trong một bài “TỰ HỎI rồi TỰ ĐÁP” của chính ông TĐT.

Khi bản thảo cuốn sách này vừa hoàn thành, chúng tôi đã tóm tắt toàn bộ nội dung để công bố trên báo Thanh Niên. Sau khi báo đăng tải, chúng tôi nhận được rất nhiều ý kiến thắc mắc từ bạn đọc. Do là giải đáp thắc mắc nên chúng tôi chọn cách trình bầy dưới dạng một bài trả lời phỏng vấn:

Độc Giả: Thưa anh, có một thắc mắc rất phổ biến cuả nhiều người, tồn tại từ khi có hiện tượng T.T. Kh cho đến nay. Đó là vì sao T.T.Kh phải ẩn mình, bởi nếu nhận mình thì là một điều vinh quang chứ có sao đâu?

- Ai cũng thắc mắc như vậy bao năm rồi nhưng tại sao không ai thấy cho là vào cái thời kỳ 1937 ấy, những câu thơ cuả T.T.Kh quả thật là dữ dội, vượt ra khỏi vòng lễ giáo. Từ sau khi T.T.Kh, trong thơ tình VN chúng ta không thấy có bài nào đạt được sự dữ dội như vậy, kể cả thơ Xuân Quỳnh. Mời bạn đọc cứ đọc lại T.T.Kh: Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời /Ái ân lạt lẽo cuả chồng tôi /Mà từng thu chết, từng thu chết / Vẫn giấu trong tim một bóng người.” Rồi thì: Đâu biết lần đi một lỡ làng/ Dưới trời đau khổ chết yêu đương/Người xa xăm qúa tôi buồn lắm/ Trong một ngày vui pháo nhuộm đường” Hoặc là: “Nếu biết rằng tôi đã có chồng/ Trời ơi người ấy có buồn không..” Tôi có thể nói chắc rằng không một người con gái có chồng nào đủ can đảm đứng ra nhận mình là tác giả của những câu thơ đó đâu, dù sau khi nhận xong thì được trao ngay một giải thưởng văn học lớn đi chăng nữa. Tôi nói ngay cả thời bây giờ cũng không còn ai dám nhận chứ đừng nói tới những năm tháng đó. Những câu thơ ấy tác giả phải sống để bụng chết mang theo.

Độc giả: Thế còn sáu mươi năm sau, khi Thế Nhật viết cuốn T.T.Kh nàng là ai?, thì mọi thứ ràng buộc có lẽ không còn nữa đối với TTKh. Vậy giả sử bà Vân Chung đúng là T.T.Kh thì việc gì bà phải phủ nhận mình, phải phản ứng dữ dội như vậy? Bà Vân Chung cón nói rằng nhận mình là T.T.Kh thì việc gì bà phải phủ nhận mình, phải phản ứng dữ dội như vậy? Bà Vân Chung còn nói rằng nhận mình là T.T.Kh là một điều vinh quang nhưng tiếc rằng không thể nhận được vì mình không phải là T.T.Kh, sợ một ngày nào đó có “T.T.Kh thật” xuất hiện thì xấu hổ. Nhiều người cho rằng bà Vân Chung nói như thế nghe ra có vẻ chân thành. Anh có nhận xét gì vế ý kiến này?

- Đúng là lời tuyên bố của bà Vân Chung quá cứng rắn khiến ai nghe qua nấy đều phải tin. Tôi dẫn chứng câu chuyện này: một biên tập viên văn học đầy kinh nghiệm của một nhà xuất bản khi đọc bản thảo của tôi đến đoạn này đã hoàn toàn bác bỏ phần giải mã phía trước của tôi và tuyên bố không thể tin Vân Chung có thể là T.T.Kh. Ban biên tập nhà xuất bản gửi bản thảo cho một biên tập viên thứ hai đọc lại thì người này cũng có nhận xét tương tự. Như vậy là khó tin thật. Cho nên chỗ này phải tinh mắt chứ suy diễn theo kiểu chủ quan bình thường là không lý giải nổi. Nếu ai đã đọc cuốn sách T.T.Kh nàng là ai? của tác giả Thế Phong thì thấy rõ cuốn sách này viết quá gây sốc, không thể chịu đựng nổi. Vấn đề nằm ở chỗ đó. Vân Chung phủ nhận mình là T.T.Kh chính là để phủ nhận cuốn sách của Thế Phong mà thôi. Và khi đã phủ nhận thì phải nói sao cho người ta tin tuyệt đối, còn nếu nói yếu ớt quá thì chẳng thà im lặng còn hơn. Nói thật, nếu trong đời thường người ta còn phải “thề độc” nữa kia chứ nói như vậy ăn nhằm gì. Hiện ông Thanh Châu còn sống ở TP.HCM, bà Vân Chung còn sống ở Pháp, hai người đâu có phản ứng gì khi tôi cho đăng tải tóm tắt bản thảo cuốn sách lên mặt báo đâu? Vì tôi viết nghiêm túc mà. Còn vấn đề như nhiều độc giả đặt ra, là đã qua sáu mươi năm rồi, không còn gì phải e ngại, nên nói đúng là T.T.Kh thì bà Vân Chung sẽ đứng ra nhận liền. Lập luận như thế là không hợp lý đâu. Bà Vân Chung phản ứng mạnh là do cách viết của ông Thế Phong. Nếu ông Thế Phong viết hiền lành hơn, thì có lẽ bà vân Chung sẽ không phản đối. Nhưng chỉ không phản đối thôi. Còn nói nếu việc tự nhận thì tôi xin thưa rằng, không bao giờ có chuyện đó. T.T.Kh không bao giờ làm cái việc đứng ra nhận mình đâu. Không nhận mình thì mới đúng là T.T.Kh. Chứ còn bây giờ giả sử có người nào đó đứng ra nhận mình là T.T.Kh thì tôi có thể nói ngay rằng đó chắc chắn không phải là T.T.Kh.

Độc giả: Anh có nhận xét gì về bức thư ngỏ của bà Vân Chung gửi độc giả trước đây?

- Bức thư này tuy phần đầu và phần cuối khẳng định mình không phải là T.T.Kh nhưng phần giữa lại đi sâu vào những chi tiết trong cuốn sách của ông Thế Phong. Nó lộ rõ ý định phủ nhận cuốn sách hơn là chứng minh mình không phải là T.T.Kh. Về mặt tâm lý, nếu không phải là T.T.Kh thì không phải nhiều lời lắm đâu. Chỉ cần khẳng định một câu “tôi không phải là T.T.Kh” là đủ rồi.

Độc giả: Thế còn bức thư ngỏ của bà Vân Chung gửi bà Thư Linh? Bức thư này rất quyết liệt, chứng tỏ tác giả bị bức xúc?

- Không phải là T.T.Kh thì thôi chứ làm gì mà bức xúc! Tôi thấy lời lẽ trong bức thư này rất nặng nề u ám. Nó cho thấy tác giả là một người có tâm hồn dễ bị tổn thương. Tôi nhớ lại những câu thơ cuả T.T.Kh thuở xưa cũng nặng nề u ám như thế. Chẳng hạn như câu thơ “Là giết đời nhau đấy biết không?/Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung.” Độc giả có thấy rằng, nếu bà Thư Linh chỉ phạm “cái tội” như bà Vân Chung nói là “vu khống” cho bà là T.T.Kh trong khi bà không phải là T.T.Kh thì “cái tội” ấy có gì nghiêm trọng đâu. Người ta nói mình là T.T.Kh chứ có nói gì xúc phạm danh dự nhân phẩm đâu mà phải giận dữ ghê thế! Sự giận dữ trong bức thư này thực tế vượt ra ngoài ranh giới bình thường. Nó cho thấy chỉ có bà Thư Linh phạm vào những “cái tội” như vi phạm lời thề không tiết lộ thân phận của bà Vân Chung chẳng hạn thì mới có sự giận dữ vậy.

Độc giả: Như vậy có thể tin rằng T.T.Kh chính là Trần Thị Vân Chung? - Tôi biết diễn đạt thế nào cho khỏi bị bắt bẻ về mặt câu chữ đây? Thú thật tôi rất muốn nói như vậy nhưng có lẽ tôi không nên nói thế mà nên nói thế này: tôi tin rằng từ nay về sau khó có ai có thể tìm ra một người nào khác phù hợp với T.T.Kh hơn Trần thị Vân Chung. Trần Thị Vân Chung sẽ đi vào lịch sử văn học như là một bóng hình kỳ lạ để từ đó người đời soi rọi ra con người thật của T.T.Kh.

Độc giả: Anh đã gặp bà Thư Linh, người đã tiết lộ câu chuyện rằng T.T.Kh chính là Trần Thị Vân Chung cho tác giả Thế Phong để từ đó người đời biết đến bà Vân Chung?

- Tôi có tìm gặp bà Thư Linh khi cuốn sách của tôi đã sắp viết xong. Tìm gặp với mục đích mượn một số bài thơ của bà Vân Chung để so sánh chứ không phải để hỏi xem bà Vân Chung có phải là T.T.Kh không. Bởi công việc giải mã của tôi độc lập với những thông tin đó. Bà Thư Linh đã cho tôi xem khá nhiều thơ của Vân Chung gửi tặng bà. Bà Thư Linh cho biết bà rất buồn vì mười năm nay tình bạn của bà và bà Vân Chung bị sứt mẻ trầm trọng từ khi Thế Phong viết cuốn sách.

Độc giả: nếu bà Vân Chung không phải là T.T.Kh thì thôi chứ việc gì mà phải giận lâu như thế? Có lẽ bà Vân Chung là T.T.Kh thật chăng?

- Cái này thì tuỳ suy luận của mọi người thôi. Nhưng tôi cũng đồng quan điểm đó.

Độc giả: - Anh đã tìm cách giải đáp câu hỏi ai có thể là TTKH nhưng anh chưa giải đáp được cái bút danh TTKH có nghĩ gì?

- Tôi chỉ có thể giả định ai có thể là TTKh mà thôi. còn vì sao người đó lại lấy cái bút danh khó hiểu đó thì tôi không thể suy luận được. Bởi việc lấy bút danh nhiều khi rất ngẫu hứng, không theo một quy luật nào cả. Tạm thời chúng ta chỉ thấy hai chữ TT trùng với chữ đầu của họ và tên lót của bà Vân Chung. Còn KH thì không biết do đâu mà có.

Độc giả: - Anh có nghĩ rằng mình đã khép lại được nghi án này không?

- Tôi tin rằng tôi là người cuối cùng khép lại được nghi án này sau 70 năm để ngỏ.

TRẦN ĐÌNH THU

(từ trang 81 đến 87)
Khi đọc bài HỎI và ĐÁP trên người ta nhận ngay được nhà giải mã T.Đ.T đã “GIẢI MÔ thật vô cùng “vất vả” với những gì đã được ông Thế Phong “dọn sẵn cỗ” cho ông rồi và ông chỉ cần sao chép lại thêm thắt vài việc (chẳng lẽ lại chép tuốt hết sách của ông Thế Phong thì coi kỳ quá xá!) rồi làm cách nào để nguỵ trang những gì sao chép không quá gây sốc, để không không thể chịu đựng nổi. Thế là với: Thông tin ngắn ngủi và không có bằng chứng nhưng ông Thế Phong đã viết thành một cuốn sách với tựa đề hấp dẫn T.T.Kh nàng là ai? được ông TĐT “giải mã” trùng khớp với thông tin được tiết lộ trước đây (thông tin được tiết lộ trước đây: “cuỗm” từ TTKH Nàng Là Ai? của Thế Nhật)

Rồi nhà giải mã T.Đ.T khiêm tốn tuyên bố một câu “xanh rờn”:

- Tôi tin rằng tôi là người cuối cùng khép lại được nghi án này sau 70 năm để ngỏ.

Quả thật, đúng như tựa đề bài báo đăng tải trên Pháp Luật ngày Chủ Nhật 18.3.2007: “GIẢI MÃ NGHI ÁN T.T.KH” của ông TĐT CHƯA RÕ ĐÚNG SAI NHƯNG CHẮC LÀ ông TĐT PHẠM LUẬT (Xem Bài Báo ở dưới):

Ông giải mã TĐT chẳng những phạm luật theo những nhận xét của các Luật sư Trương Thị Hoà và Phạm Quốc Hưng trong Đoàn Luật Sư TP.HCM mà còn phạm một luật chơi tuyệt đối cấm kỵ của giới cầm bút: Sao Chép Ý Tưởng của Thế Nhật mà chàng giải mã vĩ đại cứ phớt tỉnh Ăng Lê, lờ tịt đi xuất xứ lấy từ đâu ra (trong văn chương gọi là đạo văn, đạo ý - ngoài đời gọi là “cuỗm”, “thuổng” hay nói nôm na là “ăn cắp”) rồi mập mờ đánh lận con đen xử dụng cái trò tiểu xảo “ăn theo” “hùa theo” “ăn có”(một việc làm chẳng đẹp tý nào).

Thành Danh trong Sự Nghiệp Văn Chương có rất nhiều phương cách.

Nhà giải mã TĐT đã chọn cho mình phương cách đi TẮT cho NHANH, cho GỌN, cho DỄ, GÂY ĐƯỢC TIẾNG NỔ dù THƠM dù THỐI nhà giải mã TĐT cũng “đếch” cần miễn làm sao được nổi danh liền tuýt suỵt là đủ.

May mắn thay cho nền văn chương Việt Nam ngày hôm nay không có nhiều người cầm bút đi tắt theo kiểu NHÀ ĐẠI GIẢI MẢ VĂNG HỌC TĐT!

_______________________________________________________

Bài Đăng Tải Trên báo Pháp Luật:

Hơn 70 mươi, trước bao cuộc tranh luận tốn hao giấy mực trên nhiều diễn đàn báo chí, văn học, tác giả bài thơ “hai sắc hoa ti gôn” vẫn ẩn mình dưới tên tắt là TTKh và không công khai tên thật. Mới đây, có người viết sách “nghiên cứu” về nhân thân TTKh đã đưa tư liệu về đời tư cuả một phụ nữ có thật ngoài đời để chứng minh người ấy là TTKh. Giá trị của luận cứ này xác thực mức nào chưa rõ nhưng lại làm phát sinh tranh chấp pháp lý về vi phạm đời tư, vi phạm quyền tác giả. (trích bài thơ “Hai sắc hoa ti gôn”).

VỤ “KIỆN” TTKH-NÀNG LÀ AI?:

- Năm 1994, cuốn sách TTKh - nàng là ai? cuả tác giả Thế Nhật gây xôn xao dư luận vì đã giải mã bí mật về nhân thân của tác giả TTKh. Qua lời kể của bà Thư Linh (bạn của một phụ nữ tên trần Thị Vân Chung), nhà văn Thế Phong khẳng định TTKh chính là TTKh (sinh năm 1919 tại Thanh hoá, sống tại Pháp). Sau khi sách in ra, bà Vân Chung đã gửi thư tới Bộ Văn hoá-Thông tin, NXB Văn hoá-Thông tin, tác giả Thế Nhật và bà Thư Linh để phủ nhận mình là TTKh. Bà Vân Chung tỏ ra bức xúc và khẳng định: Nếu có mặt ở VN, bà sẽ kiện bà Thư Linh về tội vu khống vì “miêu tả sự sỗ sàng của người đàn bà có chồng mà còn có cử chỉ vô luân tồi bại” với người khác. Vụ khiếu nại của bà Vân Chung đối với cuốn sách trên gây xôn xao dư luận báo chí suốt một thời gian dài rồi tạm khép lại.

CUỐN SÁCH THỨ HAI VỀ TTKH:

Sau một thời gian dài bị nhiều nhà xuất bản từ chối vì ngại xảy ra vụ kiện tương tự, mới đây (tháng 2-2007), cuốn Giãi mã nghi án văn học TTKh của Trần Đình Thu đã được NXB Văn hoá Sài Gòn cho in. Tác giả TĐThu cũng khẳng định bà V Chung chính là “nghi can số một” trong “nghi án văn học” này vì bà VChung có nhân thân giống TTKh đến mức kỳ lạ. Để chứng minh lập luận trên, ông TĐThu đã trích dẫn một số bài thơ của bà VChung (do bạn bè của bà V Chung cung cấp) để độc giả có sự sánh về phong cách thơ của bà V Chung với TTKh. Tác giả nhắc lại ngày sinh, quê quán, gia cảnh, cha mẹ cùng thân thế của chồng bà Vân Chung để khẳng định bà là người có nhân thân phù hợp nhất với TTKh. Ngoài ra tác giả cũng có nêu rõ hoàn cảnh quen nhau giữa bà VChung và người tình cũ, lý do hai người chia tay... Bìa trong cuốn sách còn in ảnh bà VChung và chú thích rõ: “bà T T V Chung thời còn trẻ (...). đây là người được khẳng định là TTKh”.

XÂM PHẠM BÍ MẬT ĐỜI TƯ:

Sách ra xong, bà V Chung lần nữa lại gửi thư phản đối, nói rằng không thể coi sách là tài liệu văn học, vì đã nêu tên tuổi, đưa hình ảnh, chà đạp lên đời sống cá nhân mà không xin ý kiến của người trong cuộc. Theo ông TĐThu thì ông chỉ muốn nghiên cứu “giải mã TTKh” để ghi đúng tên tác giả những bài thơ trên vào danh mục tác giả văn học. Ông khẳng định sách của ông chỉ viết “bà V Chung là TTKh” chứ không xúc phạm uy tín, danh dự, nhân phẩm của bà. Mặt khác, theo ông, thì nội dung sách không phạm điều cấm của Luật Xuất Bản nên chẳng có gì để nói ông phạm pháp luật.

Về vấn đề này, luật sư Trương Thị Hoà (Đoàn Luật sư TP.HCM) tỏ ra khá “ủng hộ” tác giả TĐThu ở khía cạnh đi tìm tên thật tác giả TTKh: “Những bài thơ của TTKh đã được lưu truyền và nổi tiếng trong 70 năm qua. Việc nghiên cứu để ghi đúng tên tác giả của những vần thơ bất hủ đó là việc đáng ghi nhận và khuyến khích”. Tuy nhiên Ls T.T.Hoà cũng lưu ý: “Việc công bố các tư liệu có liên quan đến đời tư của cá nhân phải được sự đồng ý của họ. Nếu việc công bố vô hại và người trong cuộc cũng không có ý kiến gì thì họ có thể chấp nhận được”. LS Phạm Quốc Hùng (Đoàn LS TP.HCM) phân tích sâu hơn hành vi xâm phạm đời tư: “Việc công bố, đăng tải những thông tin về đời tư mà không được sự đồng ý của người đó là vi phạm Điều 38 Bộ luật Dân sự về bí mật đời tư của cá nhân, có thể bị kiện bồi thường thiệt hại và thu hồi sách. Ngoài ra, việc tự ý đăng những bài thơ khác của bà V Chung là vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ”.


Paris, 20.3.2007
Việt Duy
(Thanh Hải, báo Pháp luật TP HCM ra ngày 18/3/2007, phát hành tại TP.HCM)
Chưa có đánh giá nào
Chia sẻ trên Facebook

Trang trong tổng số 2 trang (19 bình luận)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]