53.20
Ngôn ngữ: Chữ Hán
Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt
Thời kỳ: Tấn
14 bài trả lời: 9 bản dịch, 5 thảo luận
7 người thích
Từ khoá: chờ đợi (71) ly biệt (51)

Đăng bởi Vanachi vào 03/07/2005 19:43, đã sửa 9 lần, lần cuối bởi tôn tiền tử vào 25/11/2023 08:46

織錦回文

君承皇詔安邊戍,
送君送別河橋路。
含悲掩淚贈君言,
莫忘恩情便長去。

何期一去音信斷,
遣妾屏幃春不暖。
璚瑤階下碧苔生,
珊瑚帳裏紅塵滿。

此時到別每驚魂,
將心何托更逢君。
一心願作滄海月,
一心願作嶺頭雲。

嶺雲歲歲逢君面,
海月年年照得偏。
飛來飛去到君旁,
千里萬里遙相見。

迢迢路遠關山隔,
恨君塞外長為客。
去時送別蘆葉黃,
難悟已經柳花白。

百花散亂逢春早,
春意催人向誰道。
垂楊滿地為君攀,
落花滿地無人掃。

庭前春草真芬芳,
花得秦箏向畫堂。
為君彈得江南曲,
附寄情深到朔方。

朔方迢迢山難越,
萬里音書長斷絕。
銀妝枕上淚沾衣,
金縷羅裳縫皆裂。

三春鴻雁渡江聲,
此時离人斷腸情。
箏弦未斷腸先斷,
怨結先成曲未成。

君今憶妾重如山,
妾亦思君不暫閒。
織將一板獻天子,
願訪而夫及早還。

 

Chức cẩm hồi văn

Quân thừa hoàng chiếu an biên thú,
Tống quân tống biệt hà kiều lộ.
Hàm bi yểm lệ tặng quân ngôn,
Mạc vong ân tình tiện trường khứ.

Hà kỳ nhất khứ âm tín đoạn,
Khiển thiếp bình vi xuân bất noãn.
Quỳnh dao giai hạ bích đài sinh,
San hô trướng lý hồng trần mãn.

Thử thời đáo biệt mỗi kinh hồn,
Tương tâm hà thác cánh phùng quân.
Nhất tâm nguyện tác thương hải nguyệt,
Nhất tâm nguyện tác lĩnh đầu vân.

Lĩnh vân tuế tuế phùng quân diện,
Hải nguyệt niên niên chiếu đắc thiên.
Phi lai phi khứ đáo quân bàng,
Thiên lý vạn lý dao tương kiến.

Thiều thiều lộ viễn quan san cách,
Hận quân tái ngoại trường vi khách.
Khứ thời tống biệt lư diệp huỳnh,
Nan ngộ dĩ kinh liễu hoa bạch.

Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo,
Xuân ý thôi nhân hướng thuỳ đạo.
Thuỳ dương mãn địa vị quân phan,
Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo.

Đình tiền xuân thảo chân phân phương,
Hoa đắc Tần tranh hướng hoạ đường.
Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc,
Phụ ký tình thâm đáo sóc phương.

Sóc phương thiều thiều sơn nan việt,
Vạn lý âm thư trường đoạn tuyệt.
Ngân trang chẩm thượng lệ triêm y,
Kim lũ la thường phùng giai liệt.

Tam xuân hồng nhạn độ giang thanh,
Thử thì ly nhân đoạn trường tình.
Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn,
Oán kết tiên thành khúc vị thành.

Quân kim ức thiếp trọng như san,
Thiếp diệc tư quân bất tạm nhàn.
Chức tương nhất bản hiến Thiên Tử,
Nguyện phóng nhi phu cập tảo hoàn.

 

Dịch nghĩa

Chàng vâng chiếu vua đi đồn trú nơi biên cương
Tiễn chàng qua cầu, đường xa thăm thẳm
Ngậm sầu, ngăn lệ, trao chàng mấy lời
Đừng quên tình này dù xa cách

Một ra đi tin tức đành vắng bặt
Phòng không của thiếp xuân về chẳng ấm
Dưới thềm hoa rêu đã phủ xanh
San hô màng trướng đầy bụi bám

Buổi ấy chia tay lòng khiếp hãi nhường bao
Lo làm sao cho gặp lại được chàng
Xin được làm ánh trăng nơi biển xanh
Xin được làm mây lạnh trên đầu núi

Mây lạnh năm năm còn thấy được mặt chàng
Trăng biển năm năm còn soi dấu biên cương (nơi chàng ở)
Bay đi bay lại còn đến được gần chàng
Dẫu ngàn vạn dặm vẫn có thể thấy nhau

Thăm thẳm đường xa, núi non cách trở
Giận chàng còn mãi làm người khách nơi biên tái
Buổi ấy xa nhau lá hoa lau úa vàng
Ai tin bây giờ hoa liễu đã trắng xoá

Hoa nghiêng ngả gặp mùa xuân sớm
Nỗi niềm xuân xui khó nói ra
Thuỳ dương rụng lá cũng vì chàng
Hoa rơi đầy đất ai người quét

Trước sân cỏ xuân toả mùi thơm
Ôm đàn Tần Tranh ra phòng đẹp
Vì chàng đàn trọn khúc Giang Nam
Gửi gắm tình này về phương bắc

Phương bắc sông núi xa xôi thăm thẳm khó vượt qua
Vạn dặm tin chàng dứt hẳn rồi
Vật trang sức trên gối, nước mắt em thấm áo
Áo thêu vàng, lụa vẽ hoa cũng từng chịu ủ ê

Ba xuân hồng nhạn kêu qua sông
Cũng giống nỗi đau đứt ruột của một người xa cách
Đàn chưa dứt mà lòng dứt trước
Oán kết rồi, đàn vẫn chưa rồi

Chàng nhớ em tình nặng như núi non
Em cũng nhớ chàng chẳng lúc nào khuây khoả
Dệt bức gấm này cúi dâng Thiên tử
Xin cho chồng con được sớm trở về.


Tương truyền khi chồng là Đậu Thao làm quan thứ sử ở xa lâu không về, Tô Huệ làm bài hồi văn này dâng vua xin được cho chồng về. Bài thơ này được nàng thêu trên một bức gấm, những chữ to ở giữa thêu kim tuyến. Đọc bắt đầu từ bên trái, ngang ngoài biên rồi dọc xuống hàng biên bên phải, rồi lại đọc ngược lên, theo lối chữ chi. Những chữ to cũng đọc từ bên trái đổ tròn quanh dần vào giữa.

Bản dịch nghĩa của Tô Kiều Ngân.

 

Xếp theo:

Trang trong tổng số 2 trang (14 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]

Ảnh đại diện

Nhận xét bản dịch.

Theo tôi, bản dịch bài thơ "Chức cẩm hồi văn" của Tô Huệ, do Tiến sĩ Ngô Thế Vinh (1802 - 1856, quê xã Bái Dương, huyện Nam Chân, nay là huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định) dịch, là bản dịch hay hơn cả, bở lời thơ dịch tự nhiên, nhuần nhuyễn, không gượng ép; đọc lên lại gợi ta nhớ đến bản dịch "Chinh phụ ngâm" vậy!

LNg.BXL.

LNg.BXL.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Về tên bài thơ...

Nếu dịch là “Dệt bài văn lộn quanh trên gấm“, tức là nói hành động dệt, thì không đúng; vì đây là tên BÀI THƠ được thêu, dệt VÒNG TRÒN trên GẤM, chứ không phải là nói đên việc dệt bài thơ đó.

LNg.BXL.

LNg.BXL.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Nguyễn Tường Cẩm

Chàng vâng hoàng chiếu ra ngoài thú,
Đưa chàng mới biệt bên cầu nọ;
Ran tay nuốt lệ chúc chàng đi,
Xiết bao ân tình nguyện còn nhớ.

Mà nay một vắng âm tín chậm,
Thiếp ở bình vi xuân chẳng ấm;
Rêu xanh mọc cả trước thềm hoa,
Bụi hồng bám khắp trong màn gấm.

Nhớ khi chia rẽ lại kinh hồn,
Mong chàng mòn mỏi tấc lòng son;
Một lòng nguyện hoá trăng bể biếc,
Một lòng nguyện hoá khói đầu non.

Mây non tháng tháng còn trông thấy,
Trăng bể năm năm chiếu cõi ngoài;
Bay đi bay lại gặp chàng luôn,
Nghìn dặm vạn dặm soi nơi ấy.

Thẳm xa ải núi nom mờ mịt,
Giận chàng ở mãi ngoài xa tít;
Khi đi chỉ thấy lư diệp vàng,
Giờ đã cánh mai rơi hồ hết.

Hoa rơi tán loạn vì xuân sớm,
Xuân ý sao đây ghẹo người gớm;
Vị chàng rụng khắp lá thuỳ dương,
Lá dương khắp đất không người lượn.

Sân ngoài hoa cỏ đượm mùi hương,
Sẽ lựa dây tranh lúc khổn đường:
Vị chàng gảy khúc Giang Nam ấy,
Gửi chút tình thâm đến sóc phương.

Sóc phương non nước trông đằng đẵng,
Dấu nhạn lâu nay sao thấy bẵng;
Đầm đìa má phấn hạt châu rơi,
Xiêm áo sương gieo đôi dòng nặng.

Ba năm nghe tiếng nhạn qua sông,
Chạnh nhớ người xa luống đau lòng;
Dây đàn chửa rối lòng đà rối,
Giọt lệ sa rồi khúc chửa xong.

Lòng chàng nhớ thiếp nặng bằng non,
Thiếp cũng mong chàng nát ruột gan;
Dệt nên một bức tiến thiên tử,
Nguyện sớm chàng về thiếp được an.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
tửu tận tình do tại
Chưa có đánh giá nào
Trả lời
Ảnh đại diện

Bản dịch của Khuyết danh Việt Nam

Chàng vâng chiếu sai ra biên ngữ,
Tiễn chàng đi tới giữa hà kiều.
Ngậm ngùi sẽ dặn mấy điều:
Ân tình chớ nỡ bỏ liều đi lâu?

Ai hay đâu chảy rồi tin vắng?
Bức bình vi chút chẳng hơi quân!
Thêm quynh vẻ biếc in ngần,
Màn san hô đó, hồng trần chan chan.

Nỗi ly biệt động bàn thêm hãi.
Mong chốn nào được lại gặp người:
Một xin làm nguyệt bể khơi,
Một xin làm áng mây trôi đầu ghềnh

Mây kia với mặt mình thường gặp,
Nguyệt kia từng soi khắp đòi nơi.
Bên chàng đi lại chẳng dời,
Dẫu nghìn muôn dặm xa khơi thấy liền,

Đường thăm thẳm cách miền sơn hải
Giận nỗi chàng khách mãi phương xa
Khi đi lau mới vàng pha,
Lại nay mấy độ mai hoa trắng rồi!

Hoa man mác gặp hồi xuân nở,
Ý xuân này biết giở cùng ai?
Vi chàng cảnh liễu vin hoài,
Hoa rơi đầy đất, vắng người phù chi!

Sân xuân thảo xanh rì một lượt,
Ôm đàn tranh tha thướt hoạ đường:
Vì chàng này khúc tư hương!
Giọt tình gửi tới sóc phương đó cùng:

Sóc phương đó non sông cách trở,
Muôn dặm xa, tờ chữ ai mang?
Giọt châu trên gối ngân trang,
Xiêm thêu mấy cảnh hoa vàng rất cao,

Vắng nghe tiếng xuân hồng qua bến,
Tình li nhân đau đến nhường nào!
Huyền còn, ruột đã như bào,
Oán lâu, huyện chửa lựa vào khác xong

Chàng nhớ thiếp, tấm lòng này nặng,
Thiếp nhớ chàng cũng chẳng chút nguôi!
Di làm một bản dâng giời,
Ngửa […] xin giả chồng tôi mau về.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Chưa có đánh giá nào
Trả lời

Trang trong tổng số 2 trang (14 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2]