Năm Kỷ Sửu tuổi trời bốn tám
Trông tóc râu đà muốn điểm hoa râm
Quăng gương đi, gẫm nghĩ lại cười thầm
Nhỏ rồi lớn, lớn lại già, dầu trối kệ
Thân hạt lúa nổi chìm trên bãi bể
Cánh chim phù cao thấp dưới lừng trời
Nay mà sau, dầu cho đến năm mươi
Sáu mươi, bảy tám chín mươi
Già một kiếp, cũng ngang tàng cho mãn kiếp
“Nhập thế cuộc bất khả vô công nghiệp
Xuất mẫu hoài tiện thị hữu Quân Thân”
Lúc thiếu niên đà lở bước thanh vân
Nay lão cảnh phải cam bề bạch bố
Chốn nhà bạc, luân thường coi cũng đủ:
Có vợ, có con, có đày, có tớ

Câu tề gia là chữ “tiểu kinh luân”
Vừa ngày xuân, rượu thịt một đôi tuần
Mình gục gặc với mình coi cũng thú
Say dưa ghế ngâm thơ cho vợ ngủ
Buồn chong đèn đánh kiệu với con chơi
Gia đình này cũng đủ thú vui
Lọ là phải Nam Bắc xanh vàng cho nhọc xác
Đường thế lộ xưa nay đổi khác
Bởi không tài nên chẳng dám bôn chôn
Co tay một giấc hoành môn


Xuân Kỷ Sửu 1889

Bài ca trù này đã đăng trong Non nước xứ Quảng. Thanh Lãng trong Bảng lược đồ Văn học Việt Nam (quyển hạ, trang 149-150, NXB Trình bày, 1967) ghi sai tác giả là Học Lạc. Nội dung đầy đủ của bài ca trù này được nhiều người trong đại gia đình khoa bảng họ Phạm ở Chánh Lộ đọc lại, và còn nhớ thuộc lòng. Bài trích đăng trong tập Thi ca và Giai thoại miền Ấn - Trà do chính cháu đích tôn của Tú Cang là Phạm Viết Hường (Giánh) sao lại theo lời của thân phụ là ông Phạm Viết Hoàng đọc lúc sinh thời ở trú quán An Phú, Sơn Tịnh.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]