Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Phạm Phú Thuần
Đăng bởi tôn tiền tử vào 24/03/2015 14:19
Đùng! Đùng! Đùng!
Bom đạn nổ lung tung
Quân địch tràn Gò Nổi
Vị trí đúng Phú Bông
Bao nhiêu làng lân cận
Hàng ngày chúng đi lùng
Mới đến đà khó chịu,
Ít lâu càng hành hung
Hãm dân đốt nhà cửa
Giết người cướp của dùng
Không thể ở làng cũ
Đi tuốt vô miền trong
Đất khác một mình trông
Tản cư mười tháng ròng.
Nghe đồn tin giặc như chừng dịu
Hơi thu vườn cũ khêu tấm lòng
Tò mò theo chúng đi về thử
Quanh co chỉ ngại đường long đong
Trèo đèo lặn suối hai hôm sớm
Mây ngàn cỏ nội ngó mênh mông...
Đến làng hết canh một
Mọi người chia tây đông
Cặm cụi lần bước dọ
Mập mờ chống mắt trông
Xóm làng đều khác hẳn
Đường sá sao bịt bùng?
Hú vía khốn nạn! chắc ma dẫn
Lạc đường nên nỗi đi bao đồng
Bình tĩnh đứng lại nghỉ một lát
Lần hồi nhắm hướng tìm nẻo thông
Về đến vườn cũ nhìn đúng ngõ
Vạch gai chun bụi, đàng cũ cong
Mây mù, gió nẻo sao loè lập
Cảnh đêm lặng ngắt trông rợn rùng
Nhà lớn xiêu đổ, nhà ngang cháy
Lặng nghe ngủ ngáy giấc đang nồng
Gõ cửa se sẽ, kêu nho nhỏ,
Vợ nhà nghe tiếng còn phập phồng...
Tiếng nữa nhận rõ, đẩy hé cửa:
Ngạc nhiên trong mắt ứa đôi tròng
Biệt ly hai ngả gần năm trọn
Ngờ trong hồn mộng được trùng phùng?
Đầu trên ngủ đậu, ông hàng xóm
Giấc mơ chợt tỉnh, vọt rào dông...
Đêm khuya khoắt, gió heo rung
Leo lắt một tia sáng,
Hình ảnh hai vợ chồng
Ngọt ngào kể câu chuyện
Chưa cạn nỗi thuỷ chung
Tạm gác chờ mai đã
Tắt đèn đi ngủ chùng.
Đặt lưng xuống chiếu vừa chốc lát,
Tiếng đâu ngoài ngõ ồn như ong!
– Ủa, chớ chuyện gì vậy?
– Tiếng ai như tiếng ông?
Tây lên gần tới cổng
Liên lạc đã giục cồng.
Tốc mền nhảy dông đã
Tung ngõ theo dân nông
Trời tối bùn lầy bờ bụi rậm
Trâu nhiều đường hẹp, người ta đông
Mặc dầu tuổi già đầu gối yếu
Nhờ có sức mạnh cây gậy chống
Chạy lên đường sắt ba cây số
Mồ hôi nước mắt chảy ròng ròng
Hai chân khấp khểnh thở hì hục
Vừa nghỉ vài phút, đạn bay cùng
Cong lưng chạy lại cây số nữa
Lên tới Hoàng Diệu đói thót hông
Mười giờ nghe vắng lò mò xuống
Dọc đường trông thấy càng não nùng
Nhà tranh cháy sạch, nhà ngói đổ
Vườn tược, mít chuối khói đương lồng
Ai không có xứ sở
Trăm năm quê tổ tông
Ai không mến nhà cửa
Một giờ hoá bụi hồng.
Làm lơ đi ông về một mạch
Để xem tình thế mà đề phòng
Bàn thờ, ghế đẳng... xô đổ ngã
Sách vở, đồ đạc xáo lộn mòng
Gạo thóc, mắm muối đổ từng đống
Tây lên hồi nãy như điên khùng!
Cơm xáo canh rau dọn dưới đất
Mâm hũ bát bể ngồi xây vòng
Lót lòng vài miếng nuốt lấy được
Trương mắt bốn phía ngó mắt mong...
Tiếp tục kể lại câu chuyện cũ:
Tàn sát còn hơn lúc tấn công
Đốt nhà, chôn một bãi con nít
Quăng vô lửa đỏ quay mòng mòng
Xẻ trâu có chửa gần ngày đẻ
Nghé con trong bụng đương vẫy vùng.
Ngày kia mười một ông phụ lão
Chúng thường gặp mặt đã nhìn dung
Một tua súng máy quanh vừa dứt
Xương tan thịt nát đường bắn bông
Chặt đầu một chú đặt trên thớt
Trần thiết muối ớt giả chơi lung
Giết trâu, đốt nhà, cướp bóc, hiếp
Ví chạy bữa một ngày nào không
"Coi bộ đàn ông thế khó ở
Ông nên tránh gấp chớ ngại ngùng
Ngày kia Tổ quốc được Độc lập
Đầu bạc cũng gặp lại non sông"
Cầm tay dài vắn, mặt nhìn mặt
Nỗi niềm tan hợp nỗi bình bồng
Phần tôi cố nhiên là phải tránh
Còn nỗi ở lại biết có xong
Mưa to gió lớn, nhà một cột
Bể sâu, sóng cả thuyền giữa dòng
Xóm giềng hiu quạnh dễ mô ở
Làm ăn biết có chắc mà mong.
Phần ông cầu chúc cho yên ổn
Sự đời xin chớ lo viễn vông
Vơ vét làng ta chúng đốt sạch
Của cải đâu nữa mà còn hòng
Huống là uỷ ban đang làm việc
Hơn nữa đồng bào còn đóng sòng
Qua mùa mưa lụt dễ đi tới
Thời mối lo ngại cũng thong dong
Lúc muốn về thăm sẽ về lại
Cùng vui năm mới xem quang phong.