Vua An Dương Vương nước Âu Lạc,
Họ Thục tên Phán, người trời Nam
Xây thành đắp luỹ lở mưa tan
Lập đàn trai giới đảo bách thần
Cầu thành vững chãi giữ non sông.
Sứ Thanh Giang sông thiêng nước rộng,
Rùa Vàng thông tuệ cõi âm dương
Kịp đến giúp vua xây thành luỹ
Ngàn trượng trôn ốc gọi Loa Thành.
Ra về từ biệt sau ba năm,
Ơn này sẽ nhớ mãi chẳng quên.
Vua rằng, còn một nỗi băn khoăn,
Giặc ngoài xâm chiếm chống ra sao.
Rùa hiểu lòng vua, Rùa liền đáp,
Vận nước thịnh suy tuỳ xã tắc,
An nguy khổ nỗi do mệnh trời
Người mà tu đức sẽ dài lâu.
Rùa bèn tháo vuốt đưa vua nói,
Lẫy nỏ nhằm bắn giặc sẽ tan.
Tức thì Cao Lỗ nghe nhận lệnh,
Đêm ngày ra sức chế thần cơ
Nỏ thành vơi nỗi lo vận nước
Linh quang Kim Quy sẵn trừ tà.
Bấy giờ Triệu Đà đương khát máu,
Kéo binh tràn xuống đánh thành ta
Nỏ thần trong tay vua nhằm bắn
Đà thua hoảng loạn về Trâu Sơn
Bạt vía nuôi hận trả thù sau.
Tính kế mưu sâu xin giảng hoà,
Cử con Trọng Thuỷ đến cầu thân
Nhằm toan đánh tráo nỏ thần kia
Đem về phụng sự hiếu vua cha.
Mị Châu tin chồng chẳng sinh nghi,
Đưa nỏ thần dâng miệng hổ đói
Thuỷ ta gian trá bèn cướp lấy
Hẹn dối thăm cha nỗi lâu ngày.
Nỏ thần trong tay nhớ thù xưa,
Dẫn binh đi đánh tan phen này
Thục Phán điềm nhiên chẳng phòng bị
Toan rằng, Đà không sợ nỏ sao?
Vẫn liều dám đến chốn Loa Thành.
Quân Đà tiến sát dưới chân ta,
Cầm nỏ ra bắn chẳng tên đâu
Vua hoảng biết nỏ thần đã mất
Cùng con chạy ngựa về phương Nam.
Nghe lời Thuỷ dặn lúc từ biệt,
Rải lông ngỗng cho chàng tìm ra.
Vua chạy tới biển kêu la,
Hỡi... Sứ Thanh Giang mau cứu ta.
Rùa Vàng rẽ nước miệng thét lớn
Giặc ngồi sau lưng há chẳng ai,
Vua bèn tuốt kiếm chém Mị Châu
Máu chảy hoà nước sâu trai ngọc.
Thương nỗi nhà vua công với nước,
Rẽ sóng đưa sừng tê bảy tấc
Lặn xuống bể sâu mãi ngàn đời.
Đời truyền nơi đó đất Dạ Sơn,
Quân Đà kéo đến chẳng thấy gì
Chỉ xác Mị Châu lạnh tăm tối
Khốn nỗi tin ai tan nước nhà.
Trọng Thuỷ ôm xác về an táng,
Thương đau nhớ tiếc nỗi khôn cùng
Ngỡ người trong giếng hoá mơ tan
Ngã xuống cùng nàng rửa tội sâu.