Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Mạnh Hùng » Hà Nội một thời trai chinh chiến (2006)
Đăng bởi Vanachi vào 04/04/2008 01:08
Hai mươi năm trước một sáng mùa thu,
trời trong xanh mà nắng không dịu ngọt.
Hơn một 1000 người tiễn đưa 42 sinh viên lên đường nhập ngũ.
Chẳng ai vui trong những phút giây này.
Người xưa nói: “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”.
Khi lửa cháy ở hai đầu đất nước,
máu vẫn đổ liên hồi trên mảnh đất biên cương.
Tôi 18 lẻ một ngày, đứa lớn nhất chớm vào 21,
học ở các khoa, các khoá trong trường.
Tôi đã khóc không phải vì hèn nhát,
bao người che nước mắt lặng thầm.
Thằng Đồng cùng lớp nắm tay tôi xúc động
“Hùng ơi đi đừng chết trở về”
Chúng tôi biết những tháng ngày phía trước,
là dằng dặc đau thương, biệt ly khắc khoải đợi chờ
của những người thân yêu, của những mùa hoa sữa.
Ngày mai trên giảng đường,
bàn học trống, điểm danh không tiếng có,
những chiến trường thêm tay súng xung phong.
Tuổi còn trẻ chưa biết yêu,
chưa kịp hôn nhưng nhiều nỗi nhớ, lắm mộng mơ.
áo lính xanh như màu xanh tuổi trẻ,
chúng tôi lên đường trong tiếng gió thu reo.
Nơi chúng tôi ở, trèo qua quèn Mu đi vào chợ Đập,
cô gái Mường nước ngập đến eo mà không ướt váy.
Ngắm nhìn các em in trên dòng suối,
nước lung linh và ánh mắt đung đưa,
một biệt hiệu cho thằng Quang ti-vi là thế:
những biệt danh Nhàn lô lô,Thư xã đội,
Xuân chi điền, Bập bùng, Hợp cóc,
Cường quái và cả Chuông lưu manh.
Bãi tập bắn có đồi sim chín mọng,
tím răng môi nhớ mực tím học trò
Những buổi chiều êm ả cuối thu,
trên bãi cỏ xanh nghe gió rừng xào xạc,
ngửa mặt nhìn trời theo làn mây trắng,
đọc cho nhau nghe những đoạn thơ hay,
bịa chuyện yêu đương như là tiểu thuyết.
Ba tháng sau, cứ từng ngày, từng ngày,
đại đội tập trung nghe gọi từng người
đứng ra một hàng lên đường làm nhiệm vụ.
Tôi nhớ một chiều tháng Mười,
dưới chân núi “con rùa kéo con chuột”
chia tay đồng đội vào biên giới Tây Nam.
Cuộc đi chiến trường lặng thầm sau này với tôi trở nên quen thuộc.
Ai còn, ai mất hiện ở đâu?
Bốn mươi hai sinh viên sau ba tháng chia đi nhiều ngả,
khắp nẻo đường đất nước có chúng tôi.
Bập, Hợp, Hùng, Cường ở lại sau cùng:
đi Lạng Sơn trong những ngày ác liệt.
Tạm biệt làng quê, núi đồi, các mẹ, các em,
nơi chúng tôi ở những ngày đầu đời lính, nhiều kỷ niệm yêu thương...
Để rồi 20 năm sau, 11 thằng cùng nhau trở lại,
cũng một ngày tháng 11 như xưa.
Số phận đã mỉm cười, chúng tôi đi qua chiến tranh rồi trở lại.
Hôm nay mỗi thằng mỗi số phận, buồn vui, giàu có, khó nghèo
mà vẫn như lính ngày xưa cười đùa, châm chọc.
Chúng tôi nhớ con đường thân quen
dẫn đến mái nhà ngày xưa từng ở,
Quèn Mu sỏi đỏ, đập nước rêu xanh,
những ông, bà người còn người mất,
những thanh niên tuổi như chúng tôi ngày trước
lắng nghe chuyện cổ tích:
bộ đội ở nhà dân, bộ đội đi chống lụt, bộ đội đuổi gà.
Một cháu trai 19 tuổi hỏi tìm kỷ niệm về người cha thuở ấy,
giọt máu bộ đội mình để rơi trước khi đổ máu ở chiến trường.
Chúng tôi hứa tìm lại cội nguồn để cháu còn hy vọng.
Hai mươi năm quãng thời gian không ngắn
Chỉ có nửa ngày đi tìm kỷ niệm.
Và vẫn dưới mái tranh chúng tôi ngồi ăn sắn,
nhắc lại chuyện xưa rồi hát khúc quân hành.
Tôi tìm chỗ tôi ngủ trong căn nhà ông Nhiếp,
nơi để súng, ba lô, rẽ cỏ cây tìm về lối cũ.
Thằng Hợp tìm cây ớt từng sưởi ấm bữa cơm chiều đông muối nhạt.
Anh tìm lại các em ngày ấy, tuổi 17, 15 rất đẹp
Người lính trẻ như tôi đùa nghịch,
Thao hay gọt cho anh ăn quả gì chua ngọt,
Mơ bảo đầu anh Hùng như trái gáo còn xanh.
Bờ giếng đầu làng muộn một chiều đông,
Nhạn và anh đùa nhau té nước,
em dỗi hờn vẫn nhường anh tấm khăn lau mặt,
áo em ướt rồi khăn anh giữ một mùa trăng.
Hai mươi năm những mong về gặp em,
Nhạn,Thao, Mơ đi lấy chồng anh không gặp mặt.
Thôi cứ để kỷ niệm hai mươi năm trước.
Tình vô tư dịu nhẹ nếp đời thường.
Không hẹn trước nhưng chúng tôi trở lại.
Những người lính đến, đi, trở về thức dậy nỗi niềm xưa.
Bát nước chè xanh, củ khoai, củ sắn
mái nhà tranh, cánh đồng nước ngập..
vẫn còn đây những tháng ngày trẻ trung gian khổ,
là kỷ niệm tươi hồng nhớ mãi suốt đời ta.