Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Nguyễn Huy Tự » Hoa tiên truyện
Đăng bởi Vanachi vào 24/10/2005 13:51
Thiếp canh truyền hãy phó sang,
“Được lời gửi truớc đài trang bước vào.
“Trăng già xe vẩn hay sao,
1430. “Tơ kia lựa với mối nào khéo sinh?
“Dựng gây dám nghĩ sinh thành,
“Biết thân mình, biết phận mình thế thôi.
“Hiếu trinh riêng những gồm đôi,
“Ơn nhà hãy trước, nghĩa người thì sau.
1435. “Phận mà ra vậy cũng dầu,
“Nghĩ người đáy giếng thang lầu chẳng nhưng.
“U minh đôi ngả khơi chừng,
“Một niềm sắt đá biết rằng thấu không?
“Kiếp này đã lỏng giải đồng,
1440. “Mảnh duyên gắn bó còn hòng kiếp sau”.
Nỗi riêng càng nghĩ càng đau,
Càng hờn non nước, càng rầu gió trăng.
Nghĩ đi nghĩ lại ngập ngừng,
Ngọc xuôi đồ sắm, hương lừng mã thay.
1445. Lầu khuya vắng vẻ ai hay,
Lần nghe văng vẳng canh chầy điểm ba.
Vườn sau rén ngõ then hoa,
Đè chừng sông cái ruổi pha một mình.
Khóc than ri rỉ cuối ghềnh,
1450. Giãi lòng với nước, bày tình với trăng
“Tiếc đời chi nữa cũng rằng,
“Dầu mà có thác cầm bằng không sinh.
“Há rằng chuốc tiếng mua danh,
“Sao cho phải phận sự mình thì cam.
1455. “Trông vời trời bể mênh mang,
“Đem thân băng tuyết gửi hàm giao long”.
Bất tình chi bấy hoá công,
Cho người lấy mảnh má hồng làm chi?
Người hạnh nghị, khách dung nghi,
1460. Làm cho trâm gãy gương lìa mới thôi.
Mênh mang bể khổ sống trôi,
Biết rằng phúc thiện có trời nữa không?
Có quan Đề học họ Long,
Hồi kinh vừa gặp thuận giòng chạy qua.
1465. Tiếng người lanh lảnh nghe xa,
Kíp truyền thuỷ thủ bỏ chà vớt xem.
Trước thuyền lướt mướt làn xiêm,
Gạn tường, mới giải mọi niềm sâu nông.
Thung dung quan mới ướm lòng,
1470. Khen rằng: “Tuyết sạch, giá trong thực là.
“Tiếc thay trong ngọc trắng ngà,
“Nỡ hoài chi để trôi hoa, giạt bèo.
“Rừng thuyền cõi tĩnh là nhiều,
“Sạch mình chi lọ là liều đến ai.
“Đem mình mà trả nghĩa người,
“Để công chín chữ thiệt thòi về sau.
“May đây bèo nước gặp nhau,
“Thôi thì hợp phố cho châu lại về”.
Lặng nghe giọt ngọc đầm đìa,
Lại thôi mới kể tỉ tê sự mình:
“Trẻ thơ đội đức sinh thành,
“Sớm khuya ai dễ dứt tình được đâu.
“Ông tơ lật lọng lừa nhau,
“Cực thân nên phải ngậm sầu bước ra.
“Gốc phần dù lại dạo qua,
“Cành vin chẳng kẻo bẻ hoa tay người.
“Lại trơ mặt với người đời,
“Thà liều sóng bạc cho rồi ngày xanh.
“Muôn vàn tạ chút hậu tình,
“Ơn này may có lai sinh là còn.
“Rồi đây đáy vực ngọn nguồn,
“Xin cho bụng cá lại chôn mày ngài.
Yêu vì nết trọng vì người,
Phu nhân lại dạy đến lời đa mang:
“Thân gìa vì chút muộn màng,
“Mới hay máy Tạo tuần hoàn dành cho.
“Trăm năm dan díu nghĩa vò,
“Mai sau trông cậy già nua được dành.
“Rồi ra lá kệ câu kinh,
1500. “Mặc tiêu sái đó cho thanh thả đời”.
Ơn lòng dám lĩnh lược lời,
Tạ từ thôi thoắt thuyền xuôi bến nào.
Nhà Lưu kinh hãi xiết bao,
Mơ màng đón hỏi, xôn xao sai tìm.
1505. Đầu gành cuối bãi lần xem,
Khác gì đáy bể mò kim hững hờ.
Mối sầu đòi đoạn như tơ,
Nguồn cơn nghĩ lại sau xưa tại mình:
“Quá thương chút phận lênh đênh,
1510. “Nghìn thu để chịu bạc tình với con.
“Máy duyên nghĩ đã vào khuôn,
“Toan này chỉ thắm cho tròn tuổi xanh.
“Ai mà xem nghĩa hơn mình,
“Nỗi nênh bèo bọt, tan tành cải kim.
1515. “Đã đành mặt nước nổi chìm,
“Biết đâu tăm cá bóng chim bây giờ”.
Nàng đành được chốn nương nhờ,
Khéo là khóc vẩn, thương vơ nực cười.
Bến mê ngán ngẩm sự đời,
1520. Cái vòng con tạo, khéo chơi lững lờ.
Người còn đôi mặt sờ sờ,
Bên mê Thuỷ quốc, bên ngờ Vân Hương.
Vàng thau ngọc đá mơ màng,
Làm cho ố thắm, phai vàng thế thôi.
1525. Mấy thu tên đá bời bời,
Biết đâu sinh hãy trong vây giữ gìn.
Vỗ về lẽ khích lời khuyên,
Đắp cao thành nghĩa, chống bền rào trung.
Hãm lương, Hồ những để rông,
1530. Chắc rằng cá chậu chim lồng vội đâu.
Dằng dai bạn duật bao lâu,
Bóng ô hè giục sang thâu bấy chầy.
Diêu từ ruổi chốn ải mây,
Tin Lương biết hãy trong vây đã mừng.
1535. Hiềm vì thống tướng non lưng,
Đóng quân kín luỹ cầm chừng chẳng sai.
Lĩnh quân Diêu mới quyết bài,
“Đặc truyền” tức khắc hàm mai tiềm hành.
Đêm khuya lét thấy binh tình,
1540. Ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng.
Phá kiêu nghĩ cũng dễ dàng,
Đóng doanh, kíp thảo hai trương một bài.
Hẹn cho giờ sửu đêm mai,
Giấu cờ hiệu súng trong ngoài giáp công.
1545. Lên nơi cao phụ đứng trông,
Mũi tên thuận gió một phong bắn vào.
Lương vừa khuya tựa trướng sao,
Thấy quân bẩm được thư nào trình xem.
Phong thư vẹn vẽ còn in,
1550. Mở xem thực dấu chữ em rõ mười.
Suốt canh ngẫm nghĩ đòi thôi,
Mấy tên chiến tướng cũng đòi vào ngay.
Chư quân trông ngóng lâu nay,
Biết mưu, mài cánh day tay đợi truyền.
1555. Luỹ Dương gần cũng thông tin,
Hội binh một khắc giải liền hai vây. Khác gì hùm cũi ra ngoài,
Ấy là thoát tội đoạn rồi lập công.
Thừa cơ lò lửa mũi lông,
1560. Cúc kềnh lớp lớp, bụi hồng lưng lưng.
Thanh bình một biểu tâu dâng,
Thảnh thơi yên khấu chân nưng khải hoàn.
Gia thư nhẹ ruổi chân nhàn,
Tin lành sớm đã lọt màn Tiền nha.
1565. Vân Hương vào trước trình qua,
Nỗi thân, nỗi nghĩa như hoa nở lòng.
Gánh sầu cất nhẹ như không,
Càng xem tin báo, càng mong độ về.
Thương canh lần dịch dóng khuya,
1570. Rõ tường bản đạo kéo về kinh đô.
Rồng mây một hội nghìn thu,
Gác Đường vẽ mặt, yến Chu thoả lòng.
Người tài lược, kẻ tinh trung,
So vào công tải đều phong liệt hầu.
1575. Lại cho thế tập về sau,
Rành rành khoán núi, làu làu thư sông.
Móc mưa nhuần gội chập chùng,
Bể sôi, chợ họp người trong sảnh đường.
Rước mừng tân hữu rõ ràng,
1580. Có Lưu công tử anh nàng Ngọc Khanh.
Mới vâng ấm bổ phó kinh,
Đến mừng nhân kể ngọn ngành sự em.
Dẫu khi vui cũng chạnh niềm,
Chửa cam tình nọ, lại thêm nghĩa này:
1585. “Lửa hương nào đã chi đây,
“Mà liều cung nước làn mây hỡi người!
“Khối tình mang nặng nghìn đời,
“Đỉnh chung hầu dễ ăn ngồi được đâu.
Tiếc hoa ngần ngại nét sầu,
1590. Vừa khi Dương tướng thôi chầu vào chơi.
“Việc gì dường khác vẻ vui?”
Thấy lời sinh mới kể lời duyên do.
Thương tình mà ngậm ngùi cho,
Rằng: “Danh tiết ấy thơm tho ai bì.
1595. “Sao không tâu đến đan trì,
“Hoạ là tinh biểu chút gì trả nhau”.
Nghe lời vội thảo bản tâu,
Vào trong tiện điện buổi sau tiến trình.
Gương trời soi rõ mảnh tình,
1600. Vẽ lòng lá sắc, tạc danh biển vàng.
Khi thân nghị đạo cương thường,
Thung dung lại phán hỏi Dương sự nhà.
Thềm phong khúm núm tâu qua:
“Hiếm hoi một gái tuần đà thèm hai.
1605. “Những là giong ruổi cõi ngoài,
“Phòng hương nên hãy còn cài cửa thoi”.
Năm mây chiếu dụ rạch ròi,
Giao Tiên truyền kíp sánh đôi cùng chàng.
Tạ ơn cùng xuống điện vàng,
1610. Vội mừng nào đã kịp đường tính xa.
Về dinh ngẫm nghĩ việc nhà:
“Đành người có nghĩa, sao ta vô tình.
“Bến Tương việc hãy rành rành,
“Nào đà kết cỏ, ngậm vành chi đâu.
1615. “Vì ai cho thiệt thòi nhau,
“Ấy ai dứt được mối sầu cho đang,
“Chưa cầm sắt, cũng tao khang,
“Nỗi dây thế chẳng vội vàng lắm ru.
“Mai sau chín suối thấy nhau,
1620. “Cậy ai đổi được mặt đâu với người,
“Duyên kia trót đã nặng lời,
“Kíp chầy trong mấy thu trời quản đâu”.
Nghĩ duyên càng gảy tơ sầu,
Nghĩ mình, mình lại thêm đau đớn mình.
1625. Sang chơi vừa gặp Diêu sinh,
Thở than mới kể sự tình khúc nôi:
“Thôi thôi anh đã lầm rồi,
“Chấp kinh dường ấy ra hơi trần trần.
“Tình phu phụ, nghĩa quân thân,
1630. “Trong tam cương ấy, xem phần nào hơn?
“Tôi còn chút phận thờn bơn,
“Xe duyên là mấy, đội ơn cao dày.
“Băn khoăn xuân cỗi, huyên gầy,
“Mảnh nguyền hữu thất đến rày chửa nguôi.
1635. Mặc người tựa cửa hôm mai,
“Cầm lòng vì lánh một người thế ru?
“Sợ khi đương bể mà dâu,
“Hiếu tình lại dở dang nhau mặc lòng.
“Nghĩa kia đành tạc non sông,
1640. “Biển vàng may thế chữ đồng cũng cân.
“Dù chưa cắt hết tơ trần,
“Đành cho lập miếu phong thần về sau.
“Ấy lời tâm phúc cùng nhau,
“Tính sao cho được trước sau vẹn nghì”.
1645. Tưng bừng sắm sửa lễ nghi”.
Đào phen xanh chổi, hoa kỳ thắm sây.
Rõ ràng một cuộc vui vầy,
Đủ lề nạp thái, định ngày nghênh hôn.
Đuốc hoa lồng bóng trăng tròn,
1650. Tình riêng vẹn cả vào khuông xướng tuỳ.
Trai tài gái sắc ai bì,
“Doanh châu” ấy khách, “Dao trì” nọ tiên.
Đã người mới, lại người quen,
Tiên hoa chép chữ lương duyên đến già.
1655. Gió đưa lời, cánh bay xa,
Vừa Long Đề học thuyền đà tới kinh.
Rõ nghe hết thảy các tình,
Bài sai lại thấy biển tinh chữ bài.
Đòi nàng ngỏ dạy trước đài,
1660. Cùng làm một sớ đến mai lên chầu.
Nàng nghe ren rén cúi đầu:
“Bọt bèo dám động cao sâu thêm nhàm.
“Rủi may theo phận là cam,
“Đã đành duyên ấy lại tham nỗi nào.
1665. “Vả trên chín bệ thẳm cao,
“Dễ đâu mà tỏ âm hao cho mình.
“Sao bằng mình sạch lấy mình,
“Mặc ai nhạt nghĩa, mặn tình nghĩ chi”.
Cạn lời ông mới gạt đi,
1670. Rằng: “Như bài ấy, sắc kia phụ gì.
“Ví dù bội chốn kết nghì,
“Là vâng chỉ ngọc dám ghì lòng đanh.
“Ví sưng sưng quyết lấy mình,
“Bóng đâu quê cũ phỏng đành đấy chăng?
1675. “Ngẫm cơ ghềnh Thái các Đằng,
“Hay đâu là chẳng xích thằng sẵn xe”.
Dứt lời bần bật lặng nghe,
Tạ rồi liền dạo gót về hiên sau.
Tan canh vừa buổi ban chầu,
1680. Sớ văn Long đã quì tâu sân đền.
Khen rằng: “Này thực thiên duyên,
“Ngọc Khanh đọ với Ngọc Liên chi nhường”
Đòi Lưu công tử xem tường,
Chân tơ, kẽ tóc rõ ràng chăng nhe!
1685. Ông tơ khoảnh khách mới kỳ!
Mượn ơn mưa móc, kết nghì trúc mai.
Cửa Lương duyên lại sánh đôi,
Dồi dào tình trước, đền bồi nghĩa sau.
Cũng ban nhất phẩm như nhau,
1690. Khuê môn cho dệt mối đầu chính phong,
Ngửa trông ơn sóng trùng trùng,
Hai bên khấu tạ sân phong ra về.
Lòng hoa phấp phới đôi bề,
Vội vàng vào trước hương khuê ngỏ lời.
1695. Nhơn nhơn nét phấn thêm tươi,
Rõ ràng kể hết đầu đuôi sự tình:
Tưởng rằng trong đạo thường kinh,
“Thân bồ liễu lấy chữ trinh làm lề.
“Hay đâu sống thác chẳng nề,
1700. “Nỗi niềm nghĩ lại mà ghê gớm đời.
“Nghìn xưa âu hẳn một người,
“Ấy ai lại dám xem ai là thường.
“Vả vì chút nghĩa cũ càng,
“Dẫn thân vào chốn chiến tràng với nhau.
1710. “Bể oan tưởng có trên đầu sáng soi.
“Bây giờ lầm cát mặc ai,
“Vinh hoa riêng lấy một đời hay sao.
“Khi ăn nói, lúc ra vào,
“Nghĩ nguồn cơn ấy làm sao cho đành.”
1715. Mấy lời sắt đá đinh ninh,
Khúc tằm đem mối tơ tình gỡ ra.
Sắm sanh vội mở tiệc hoa,
Quản huyền ríu rít, ỷ la rỡ ràng.
Xe châu trăm lạng chen hàng,
1720. Gió xuân Đồng tước bàng nhường là đây.
Hội đào xưa, đã lại rày,
Tiên đưa vẻ ngọc, Ngọc vầy đoàn tiên.
Xin nhau trân trọng muôn nghìn,
Chút nào là thẹn với duyên nguyện thề.
1725. Xét cho công khoá đi về,
Nguyệt, Hương đều cũng cam bề tiểu tinh.
Nhà yên vừa dịp nước bình,
Hai sinh đều tấu đan đình vinh qui.
Cẩm hoàn một lá hồng kỳ,
1730. Lương thì quí tỉnh, Diêu thì hoàn hôn.
Diêu đường Dương nhạc hai thân,
Viện lề nhân cũng só trần minh nông.
Thênh thênh dặm tía lối hồng,
Vẻ nhuần mã gấm, hương lồng vó câu.
1735. Mảng vui cờ cuộc rượu bầu,
Cầm bên bóng nguyệt, thi đầu ngàn thông.
Viện đường thuỷ lộ thong dong,
Con thuyền lại thuận một giòng nước xuôi.
Chiều ai hoa cỏ đua tươi,
1740. Tiếng chim đâu đã sai nha đệ về.
Hương bay muôn dặm tử phần,
Tràng châu nay đã gần gần tới nơi.
Người đón rước, kẻ mừng vui,
Ghé thuyền sinh cũng tiện dời vào ngay.
1745. Phủ Diêu tiệc ngọc phô bay,
Mây lồng cờ mở, hương bay, chén kèo.
Động phòng, kim bảng đủ điều
Khi vui kể hết bao nhiêu là tình.
Đài Dương về Vọng Ba đình,
1750. Tiệc vui cũng rước hai sinh sang nhà.
Rõ ràng cỡi ngựa xem hoa,
Bức thư sớm đã sai nha đệ về.
Từ ngày tin tức đến quê,
Hai lần cáo thú đã nghe rõ ràng.
1755. Phong thư nay lại xem tường,
Tình càng thêm thoả, cảnh càng thêm thanh.
Dập dìu nghi lễ sắm sanh,
Ngựa yên khảm ngọc, xe mành ken châu.
Ngọn cờ mây rợp thôn dâu,
1760. Bồng lai xe hạc, Dương châu lưng tiền.
Tiếng thơm dậy đất sấm rền,
Cửa Lưu xa cũng nhặt truyền tin sương.
Tấc riêng mừng rỡ trăm đường,
Nhạt tanh chuyện cũ bằng đường đã quên.
1765. Kiệu hoa dạo giục rước liền,
Đành theo tình mới cho đền lỗi xưa.
Vui lòng xuân cỗi huyên tơ,
Rước mừng xem cũng bơ vơ những điều.
Đoàn viên một cuộc gấm thêu,
1770. Cúc đầy vơi chén, cầm dìu dặt cung,
Tân bằng yến ẩm vừa xong,
Thung dung Lưu mới vào trong ngỏ bày:
“Từ xưa biết lỗi đã dầy,
“Tấm lòng ngậm hổ từ rày về sau.
1775. “Vị dương một tấm tình sâu,
“Sang mừng vội tả chút sầu bấy nay.
“Hạt châu trót đã sẩy tay,
“Tự mình trăm nỗi chả hay đã đành”.
Cúi đầu nàng mới rén trình:
1780. “Rủi may, âu cũng phận mình xui ra.
“Móc mưa sấm sét cũng là,
“Cao sâu đâu nữa chẳng qua vòng trời.
“Vả trong dại dạ hèn đời,
“Trắng trong đã vậy, ngọt bùi làm sao.
1785. “Bỗng đâu rồng trúc sóng đào,
“Chia ra đã hẳn, ép vào khéo xinh.
“Vẹn tròn bên nghĩa, bên tình,
“Khuôn duyên kia đã chiều mình là may.
“Tam công chẳng đổi một ngày,
1790. “Chuyện xưa còn để đến rày sao nên”.
Giúp lời sinh cũng mở khuyên,
Thuận hoà từ đấy cũng in một lòng.
Đòi phen cợt phấn cười hồng,
Ngọc lung lay động, hương nồng nã rơi.
1795. Xuân quang cả bốn mùa trời,
Gió đưa, trăng rước, hoa mời, tuyết khuyên.
Phồn hoa bõ lúc truân chuyên,
Đã đầy phúc hậu, lại bề hiển vinh.
Ngửa vâng phượng chiếu rành rành,
1800. Lại đem gia quyến đến kinh lên chầu.
Buồm quan một lá giòng sâu,
Siêu thăng thoắt đã đứng đầu nam nha.
Quan châm chẳng chút sai ngoa,
Lộc trời chung đỉnh, gánh nhà quân dân.
1805. Gió thu gợi dạ tử phần,
Sớ từ lại thấy tỉnh thân làm lề.
Rõ ràng áo gấm về quê,
Vó câu lỏng khấu, bánh xe êm bồ.
Mạch văn còn dõi dòng nho,
1810. Hùng bi mấy giấc đã phô điềm lành.
Sởn so lan huệ nức cành,
Lễ thi cứ phép cửi canh giữ lề.
Ơn tình đủ cả hai bề,
Nẩy thân Long hạm kết nghìn Diêu môn.
1815. Phúc thường để đến nhi tôn,
Bảng vàng theo nếp, cửa son dõi đời.
Gót đầu bàn lại mà chơi,
Phong hoa hai chữ cõi đời ai không.
Lấy tình gặp gỡ đã xong,
1820. Trước sau vẹn một chữ tòng mới ghê.
Lời quê dù đã nhầm nghe,
Gác bên tình tứ giữ bề hiếu trinh.
Luân thường sáng để rành rành,
Chớ đem bác hẳn mà khinh làm thường.
1825. Nôm na đỡ chút canh trường,
Kể rồi dặn lại hai đường thế hay.