Thơ » Việt Nam » Tây Sơn » Nguyễn Hữu Chỉnh
Đăng bởi tôn tiền tử vào 31/05/2014 13:01, đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Admin vào 11/02/2024 09:54
Trương Lưu Hầu!
Trương Lưu Hầu!
Ngao cực gây thiêng;
Hồ tinh giấu sáng.
Vằng vặc my thanh mục tú, kỳ sĩ phong tư;
Nhơn nhơn thức viễn tài cao, danh nho khí tượng.
Y bát theo một mối cầm thư;
Chung đỉnh dõi năm đời khanh tướng.
Trời đất thuở cát vàng, bụi tía, áng công danh không uốn lưỡi Nghi, Tần;
Nước nhà khi bể biếc, dâu xanh, mưu báo phục há kém tay Kha, Nhượng.
Rải nghìn vàng tìm khách thiếu niên;
Nâng chiếc dép tôn người lão trượng.
Bác Lãng một chuỳ tiết nghĩa, trật vẩy Tổ Long;
Trần Lưu ba quyển lược thao, mở lòng đình trưởng.
Ngôi quân sư này chốn phúc tâm;
Việc trù sách vận trong duy trướng.
Bóng cờ phất thập thò trên đỉnh Quỹ, sơn hà trăm hai lẻ, một khắc hoá tan tành;
Tiếng tiêu đưa rủ rỉ chốn thành Cai, tử đệ tám nghìn dư, nửa đêm xuôi khảng tảng.
Việc năm năm đưa tấc lưỡi còn thừa;
Cơ nghìn dặm quyết trong màn một nhoáng.
Cung Tần rót một liều thuốc đắng, bệnh phú ông tỉnh lại lúc tê mê;
Cửa Hồng khuyên ba chén rượu nồng, hồn quý phụ xiêu về cơn chếnh choáng.
Cho dượng Phàn giương mắt tại quân trung;
Dìu ông Bái rảo chân về Bá Thượng.
Áo gấm ví von xui miệng trẻ, giục trùng đồng xót dạ lại cồn cồn;
Chén châu giả mẽ ghẹo gan già, làm ngu lão tức mình gieo choảng choảng.
Bao quận tiễn đưa xe ngựa Hán, dập dìu xui đốt nẻo về đông;
Huỳnh Dương lẩn quẩn nước non Hàn, rong ruổi rắp gây nền thụ đảng.
Đổ mồ hôi nghe lời khách vừa xong;
Sa nước mắt nghĩ việc nhà lai láng.
Chí ngùi ngùi khôn chiếm cõi trung nguyên;
Lòng ngài ngại phải chăng miền tây hướng.
Ý nhiệm bán gươm ba thứ, lòng quốc sĩ như soi;
Mưu sâu vạch đũa tám điều, mặt thụ nho mới hoảng.
Việc quyên Quan chia Tín, Bố đương quyền;
Chước hoãn chiến máy Tề, Lương phản trạng.
Gương trung nghĩa treo tranh Tề Cảnh, Kỷ tướng quân khi gấp khúc phải liều;
Máy hiểm thâm đánh mái sơn cương, Phàn tráng sĩ lúc nguy nghi phải gượng.
Bài gián Sở giục chàng Nhụ Tử, tuốt xương, bẻ cánh, chước càng ghê;
Việc vương Tề chiều kẻ vương tôn, bấm gót, rỉ tai, lời phải khoảng.
Lừa Vũ đưa một bức khiêm cung;
Ngăn Sở giục ba người cưu tráng.
Hồng Câu thuở chia sông một dải, nuôi hùm vào lỏng máy tiêm cừu;
Cố Lăng khi cắt đất hai phần, đuổi khỉ những êm bài ngự tướng.
Ngắm thiên văn hay phá Sở cơ màu;
Xem địa lý biết hưng Lưu khí vượng.
Đứa điền phu trỏ vời miền Trạch Tả, ai hay chăng ấy chước cao thâm;
Thuyền trưởng ông dòng đợi bến Ô Giang, ai biết chẳng là mưu liệu lượng.
Lũ trăm tham nào đọ sức kinh luân;
Trong tam kiệt dễ so công chiến xướng.
Phấp phới lá cờ trước gió, huân lao sá kể thứ Phàn, Đằng;
Vẫy vùng cán việt lên đàn, công tích không so phường Giáng, Quán.
Đế sư cao một bậc, trọng đức tôn danh;
Hầu tước hậu ba muôn, luận công hành thưởng.
Đường báo quốc nhờ lưng Xích Đế, tiệc Nam Cung đà vẹn tiếng vin rồng;
Chước bảo thân mượn dấu Hoàng Công, miền Bắc Thành tìm nơi ấp phượng.
Giá đã cao, nên đủng đỉnh công hầu;
Mình được nhẹ, nên tiêu dao ngày tháng.
Rỡ rỡ thư son khoán sắt, lời nãi ông dù trỏ núi thề sông;
Thênh thênh non đá am thông, thuyền tiên tử đã quen mây mến ráng.
Trót phải duyên cùng họ Hán mà theo;
Nên làm dấu lấy chữ Lưu kẻo đãng.
Đạo ấy, sá bàn chân với nguỵ, đấng cao minh chi vướng sự hữu vô;
Lòng này, ai biết Hán hay Hàn, phải biện bạch kẻo thẹn cùng phủ ngưỡng.
Trần hiêu chẳng bận ấy thần tiên;
Thanh tĩnh góp dần nên đạo dưỡng.
Ngao ngán chè thông, rượu cúc, lọ chắt chiu hồ ngọc đầy vơi;
Thảnh thơi quạt gió, đèn trăng, mảy hiu hắt đan sa nấu nướng.
Bầu tiên, chén thánh mặc khề khà;
Khoá lợi, giàm danh nào dính dáng.
Tưởng lại lúc hươu lồng, khỉ tắm, đã trống Hàm Quan, lại chuỳ Cửu Lý, giận anh hùng từ đấy sạch lâng lâng;
Trông về khi trâu mỏi, ngựa già, kìa xe Vân Mộng, nọ án Thượng Lâm, lòng du tử ngẫm thay cười sang sảng.
Hà, Tham vị thứ: bọt nước lênh đênh;
Tín, Việt công danh: áng mây thấp thoáng.
Thua được thừa điều Hán, Sở, túi Xích Tùng đủng đỉnh mái thanh sơn;
Nhục vinh gác chuyện Tiêu, Hàn, buồm Phạm Lãi nghênh ngang dòng bích lãng.
Ở giang hồ thì danh sĩ phong lưu;
Vào lăng miếu lại đại thần thể dạng.
Nghe văng vẳng chốn sa trung rục rịch, bảng lảng lừa then, rút máy, giải chúng tâm nâng một kẻ oán thù;
Thấy hiu hiu khi quốc bản lung lay, khoan thai chắp cánh, kên lông, yên trừ vị vẫy bốn người dật khoáng.
Hay dùng nào hết chước huyền vi;
Khó giấu dễ hao cơ bí tạng.
Đi lại tha hương, cố quốc, lưới anh hùng khôn dò chốn thiển thâm;
Ra vào đế tử, tiên ông, lồng trí thuật dễ ngự trong lai vãng.
Nghĩa thuỷ chung biện bạch cũng êm;
Đường tiến thoái thong dong chẳng vướng.
Một lần mộng dọc ngang trong tám cõi, đủ phê pha công Hán, nợ Hàn;
Ba tấc lưỡi đưa đẩy ngoại năm năm, vừa trọn vẹn thù Tần oán Hạng.
Ngẫm từ trên Trọng Liên, Phạm Lãi nào hơn;
So xuống dưới dẫu Lý Tĩnh, Khổng Minh chưa đáng.
Ngôi đế sư mà danh cao sĩ, ngoại vật há còn trong bụng, nghìn thu chữ thắm chửa phai vàng;
Nền nho giả mà giá danh thần, chẳng tiên nhưng cũng khác phàm, muôn kiếp sử xanh còn để sáng.
Nay độc danh thần truyện, xem thượng hữu thiên;
Trách ai thượng hữu cổ nhân, sao chẳng nguyện hy Tử Phòng, mà lại nguyện hy Gia Cát Lượng.