Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Bùi Vợi » Thanh Chương tráng khúc (2003)
Đăng bởi tôn tiền tử vào 19/09/2014 06:06
Kính tặng Quê hương Thanh Chương
Đêm sông Lam
Nhịp mái chèo khuya
Câu hát dặm lững lờ xuôi chợ Rộ
Câu hát buồn tái tê, nức nở:
Em về thương mẹ, thương cha
Rau lang chấm mói khoai hà độn cơm
Con lớn lên cùng với nỗi buồn
Đất sỏi đá nuôi người cùng khổ
Luộc giải khoai giun ăn cả vỏ
Cái bếp nghèo củi ướt cháy leo heo
Trống thúc thuế, thúc sưu
Xỉa nát trời chiều
Con chó, con gà nép vào xó bếp
Trưa nắng khét đường ai vừa đi vừa hát
Cái khố cũng đen như da người
TRên đầu ông, một chiếc nón cời
Lũ trẻ chạy theo:
- Ới ông Trị Mục
Ông hươ chân múa tay:
-Ta là Trị Mục
Ta là ngài ta cũng là tru
Không có nhà ta ngủ cội cơn trôi
Mô có nước, ta đằm cho mát!
Ông Trị Mục đi, lưng rơi từng mảng đất
Da ông dày như da con trăn
Không mẹ cha, chẳng vợ con
Lúc ngủ giữa vườn, khi nằm trên rẫy
Ông đi cuốc mướn, cày thuê
Kiếm được cái gì, ăn cái nấy
Mùa khoai lang, ông đi mót ăn trừ...
Con sông Lam nước chảy xuôi dòng
Theo dải đất quặn mình sinh nở
(Con sông lớn còn gọi là sông Cả
Cuồn cuộn từ Lào dào dạt phù sa)
Dọc đôi bờ là đất quê ta
Hữu ngạn năm mốt làng
Hai lăm làng tả ngạn
Từ dãy Trường Sơn đổ ra sông lớn
Mấy sông con như những cánh tay trần:
Sông Giăng, sông Trai, sông Triều
Cùng sông Rộ, rào Gang... quấn quýt
Rừng núi điệp trùng
Nhiều tầng, nhiều lớp
Dãy Giăng Màn xnah một bức bình phong
Có đỉnh cao như Tháp Bút, Đại Can
Như Thác Muối, Phan Sơn, Hoàng Bảng
Rừng với người bao đời mưa nắng
Nuôi cây lim, cây táu, cây vàng tâm...
Rừng giang tay che chở những đoàn quân
Từ những năm đầu Lam Sơn khói lửa
Mười tám tuổi, Phan Đà trên lưng ngựa
Lưỡi kiếm loè bạt vía quân Ngô
Đền Bạch Mã, ngựa thần tung vó
Tiếng hí còn vang tận bây giờ
Giặc Tây kéo sang. Triều đình khiếp nhược
Dân Thanh Chương dạ cháy lòng sôi
Vác gươm đao theo Tú tài Trần Tấn
Núi Đài - Chi Nê khí thế ngút trời!
CỜ nghĩa phất cao. Thề non nước
- Quỷ Tây dương, không sống cùng mày!
Dập dìu trống thúc, cờ bay
Trận này quết đánh cả Tây lẫn Triều
Khắp xứ Nghệ, trống Cần Vương giục giã.
Cờ nghĩa Nguyễn Nguyên Thành
Lê Doãn Nhã
Nguyễn Xuân Ôn
Phan Đình Phùng ở Hương Khê, Hà Tĩnh
Lửa nuôi quân
Sáng loà
Suốt một dải Trường Sơn!
Khi tiếng súng Cần Vương lịm tắt
Nghĩa quân Phan Đình Phùng trụ lại đồn Nu
Dân tổng Bích Hào góp người, góp thóc
Lương Điền bầm gan bền chí diệt thù
Cả nước mất. Nghệ Tĩnh còn chiến đấu
Nghệ Tĩnh mất vẫn còn một Lương Điền
Câu nghĩa khí như lừa hừng bốn cõi
Giặc đêm ngày ăn ngủ không yên!
Sá năm sau trận đồn Nu oanh liệt
Phan Bội Châu khăn gói đến Thanh Chương
Lấy danh nghĩa tìm nơi dạy học
Thu phục nhân tâm, dò ý quan trường
Xem địa thế, ngắm hình sông dáng núi
Cần Vương tàn, ông mở hội Đông Du.
Giặc lồng lộn điên cuồng
Xua quân đi khủng bố
Lùng bắt người các chợ
Trói ngay giữa buổi cày.
Bọn hào cường tiếp tay
Can tâm làm chỉ điểm
Người bị bắt đi đày
Người đẩy ra trường bắn.
Không chịu khoanh tay nhìn thất bại
Phan Bội Châu, Đặng Thúc Hứa lên đường
Sang Xiêm La xin đất lập trại
Bản Thầm - Phì Chịt, chốn dung thân
Đón đồng chí bị trục xuất ở Nhật
Đón anh em bị truy đuổi bên nhà
Quê đầy giặc nhưng quê không thể mất
Nước Việt cồn cào trong mỗi đứa con xa.
Duy Tân hội đổi thành Quang Phục hội.
Trại cày Bản Thầm ngày một thêm xanh
Đặng Thúc Hứa vững tay chèo lái
Góp sức cùng có em gái Quỳnh Anh.
Người phụ nữ của Thanh Chương bất khuất
Mang ý chí tâm hồn bà Triệu, bà Trưng
Nước có giặc thì cùng đau chống giặc
Gái hay trai cũng dòng máu Lạc Hồng.