Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Bính » Tỳ bà truyện (1942)
Đăng bởi Vanachi vào 10/10/2008 08:26
1275. Trên đầu hai nếp khăn tang,
Một tờ tranh một cây đàn tả tơi.
Mùa đông rét cắt da trời,
Gió giàn trước mặt, sương phơi đầy đồng.
Một thân sương gió não nùng,
1280. Bờ đê: này chỗ đưa chồng năm xưa.
Gió xe tơ, liễu bơ phờ,
Nàng còn dừng lại ngẩn ngơ nỗi mình.
Bỗng nhiên dĩ vãng hiện hình,
Ngày xưa - Ôi! thuở thanh bình còn đâu.
1285. Vườn hoa đâu nở muôn màu,
Tử tiên, hồng phấn, tú cầu, đỗ quyên.
Cha thương mến, mẹ diệu hiền,
Bỏ con thơ dại cõi tiên vội vàng.
Vườn nhà chăm chút sớm khuya,
1290. Mùa đào đỏ nụ, mùa lê trắng ngần.
Người nào đứng đó băn khoăn,
Duyên đâu chỉ Tấn, tơ Tần lại se.
Cái đêm hôm ấy đêm gì?
Chén đâu hợp cẩn cung tỳ lương duyên.
1295. Nắng hồng đã tỏ gương sen,
Động phòng sực nhớ mùi hương động phòng.
Song song đấy vợ đây chồng,
Say sưa đắp những đường vòng cánh tay.
Lời thề như thể hát hay,
1300. Muốn đem tài sắc dựng ngay nhà vàng.
Ái ân thiếp thiếp, chàng chàng,
Đắm say đến nỗi không màng công danh.
Nửa đêm vấn lại tóc xanh,
Đưa chồng đây chốn trường đình là đây.
1305. Người đi một ngót thu nay...
Ôi! Ngày xưa chỉ là ngày xa xưa!
Bây giờ nói đến bây giờ,
Có như cả một bài thơ não nùng.
Nghĩ câu phận gái chữ tòng,
1310. Đầu tang tóc rối, tìm chồng phương xa.
Cũng liều đất khách xông pha,
Mai đây thân phận rồi ra thế nào.
Ngại ngùng bước thấp bước cao,
Mắt xanh lệ ứa, má đào châu sa.
1315. Ngổn ngang rừng khổ rừng già,
Song le đường khổ cũng là đường cong.
Xạc xào chợ vẫn bên sông,
Tiều phu khói củi, mục đồng than trâu.
Đò nan cắm lẻ bến sầu,
1320. Chiều đông trời cũng ngả màu biệt ly.
Mái tranh khói nổi sắc chì,
Bộ hành đã tắt người đi sang cầu.
Chàng ơi! Chàng ở về đâu?
Xa xôi có rõ tình nhau thế này.
1325. Khi xưa đôi lứa sum vầy,
Bây giờ ra kẻ ăn mày ăn xin.
Đây không lẻ gạo quan tiền,
Mà trong lòng cái ưu phiền chan chan.
Ví mà chàng đã cao sang,
1330. Còn thương đến kẻ cơ hàn này không?
Nhớ chăng tình nghĩa vợ chồng,
Nhớ chăng lời hẹn hoa phòng ngày xưa?
Mây đùn trời lập cơn mưa,
Ngũ nương tìm chốn ngủ nhờ qua đêm.
1335. Năm canh gan héo ruột mềm,
Năm canh mưa rỏ nát thềm nhà ai.
Sáng sau chẳng quản đường dài,
Lại bơ vơ lại lạc loài lại đi.
Thấy đâu đình đám hội hè,
1340. Rẽ vào đàn hát dở nghề kiếm ăn.
Trường An đâu phải đường gần,
Hồng nhan còn phải phong trần bao nhiêu.
Tha hương lội suối băng đèo,
Người đi chỉ bóng cùng theo với người.
1345. Tì bà ai oán vì ai,
Nước non lặn lội xa khơi tìm chồng.
Nắng mưa dầu dãi má hồng,
Đắng cay chà xát tấm lòng xuân tơ.
Đường trần khăn gói gió đưa,
1350. Tiền rơi thiên hạ, cơm thừa người ta.
Suối vàng mẹ mẹ cha cha,
Ngờ đâu thân phận con ra thế này.
Thành xiêu cờ đổ bóng gầy,
Bên sông gấp gấp tiếng chày giặt sa.
1355. Mưa bay đồi núi phai nhoà,
Tiếng chuông sơn tự, canh gà ải quan.
Đôi vườn cúc nở mơ màng,
Hiu hiu giãi một sắc vàng buồn tênh.
Ngang đường quán rượu chênh vênh,
1360. Long đong vó ngựa trôi nhanh xuống đồi.
Xóm làng rải rác nơi nơi,
Lụa người người dệt, con người người ru.
Thị thành cát bụi bay mù,
Ngổn ngang một lũ trong tù đào sông.
1365. Dần dà đã hết mùa đông,
Cỏ cây e ấp giữa lòng lá non.
Xuân về khắp cả giang sơn,
Đã hay cửa cũ xanh rờn lầu xưa.
Đón xuân thiên hạ nhởn nhơ,
1370. Leo đu ngoài nội đỏ thơ trong đình.
Xôn xao gái tốt nhà lành,
Thương ôi! Tiều tuỵ một mình Ngũ nương.
Hỏi thăm từng một độ đường,
Bao lâu rồi chẳng đến Trường An cho.
1375. Lem nhem mặt bụi mày tro,
Mắt thơ kém biếc má thơ nhạt đào.
Đêm sương ngày nắng từ bao,
Ốm o thục nữ xanh xao liễu hồ.
Gặp kỳ nguyên đán bấy giờ?
1380. Ngũ nương ráng sắm đủ đồ hương hoa.
Treo tranh lên một gốc đa,
Lại quay về hướng quê nhà phương đông.
“Có thương con trẻ long đong,
Phù cho được gặp mặt chồng nay mai.
1385. Dù chàng ăn ở đơn sai,
Cũng xin chẳng dám nửa lời làm chi.
Hay hèn đành thói nữ nhi,
Lỡ ra thôi có tiếc gì thân con.
Cốt sao tình hiếu vuông tròn,
1390. Cốt sao giữ tấm lòng son vẹn toàn.
Giàu sang cũng thể nghèo nàn,
Chết đi cũng đến hai lần tay không?”
Từ phần rỏ lệ ngùi trông,
Đường xa dặm thẳm cô bồng lại bay.