Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Nguyễn Liên Phong » Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca (1909)
Đăng bởi Vanachi vào 08/01/2019 11:31
Trà Vinh phong cảnh thi:
Tốt thay phong thổ xứ Trà Vinh,
Hứng cảnh vui xem cảnh thích tình.
Tiếng ruộng Đồn Điền roi sự tích,
Tên chùa Ông Mẹt dấu anh linh.
Làm ra thần hiển phần Quan bố,
Sức hoá giàu to mạng Tổng Minh.
No ấm dần đều nhờ lúa gạo,
Bấy lâu an ổn bặt tâm kình.
Tốt thay địa hạt Trà Vinh,
Hai mươi phần tổng thinh thinh rộng dài.
Thổ ở trong, Hớn ở ngoài,
Giăng giăng theo xóm đua tài làm ăn.
Người còn roi dấu nho văn,
Ruộng là sự nghiệp bổn căn bạc tiền.
Mấy năm gầy dựng mối giềng,
Công lao nhà nước nhọc siêng nhiều bề.
Lần lần nay mới chỉnh tề,
10. Quan quân dinh dãy tư bề sửa đương.
Hai toà phang niếc công đường,
Ngân phòng đển xá học trường vẻn vang.
Nhà thờ Thanh Lệ nghiêm trang,
Nhà lầu bà phước vũng vàng dưới trên.
Ông Mẹt gốc là người Mên,
Kêu chùa Ông Mẹt đặt tên cũng vì.
Nguyên xưa trong lúc loạn ly,
Xui lòng Ông Mẹt từ bi phát nguyền.
Của nhà tự xuất bạc tiền,
20. Cất thành chùa Phật ngôi riêng trong làng.
Chánh trung Phật lớn thết vàng,
Nên cao rộng rãi tứ bàn trồng cây.
Xanh quanh Lục Sãi ở đầy,
Lá buôn viết chữ nét gầy tợ cua.
Tụ Mên ăn học tại chùa,
Thiệt thà chắc chắc quê mùa mà xong.
Gặp ngày cúng cấp đi đông,
Bông hoa bánh trái đờn ông đờn bà.
Rặp bồn rặp bát ngâm nga,
30. Vái van quì mọp trẻ già khiêm cung.
Thổ táng phận người nghèo cùng,
Giàu thì hoả táng xây dùng quá đa.
Thường khi vái cất Tha La,
Lớn bằng căn phố người ta nghỉ ngồi.
Lệ chùa nào khánh táng rồi,
Thì ngoài bốn phía đắp bồi Sa Ma.
Tục kêu rằng chót Sa Ma,
Là nguyên các chú cúng mà của riêng.
Hoặc là đồ đạc bạc tiền,
40. Gởi cho cha mẹ cữu tuyền chứng thâu.
Ngoài chùa đào lỗ rộng sâu,
Thỉnh thầy Sãi Cả kỉnh cầu vái van.
Lòng thành cúng quảy kỹ càng,
Cột hòn đá lớn treo ngang miệng hầm.
Mấy người khần niệm lâm râm,
Của chi mình gởi thì cầm nơi tay.
Quăng xuống lỗ, không mấy đầy,
Thầy cắt dây ấy đá rày trấn lên.
Đắp bồi nện chặt bốn bên,
50. Miệng hầm lót gạch cái nền thẳng ngay.
Vuông vuông chừng một thước tây,
Ngoài cất chòi nhỏ như nay Thổ kỳ.
Dựng trong tấm đá y nguy,
Hoặc chạm hình Phật bất kỳ hình hoa.
Cũng gọi rằng là Tha La,
Tiếng Mên kêu chót Sa Ma mỹ miều.
Xanh quanh chùa bốn hướng đều,
Mỗi chòi mỗi lỗ tạc biêu thảo nhà.
Chùa nào chưa chót Sa Ma,
60. Qui mô chùa ấy vậy mà chưa nên.
Trà Vinh biết mấy chùa Mên,
Cây cao mát mẻ hai bên an nhàn.
Trung hưng thuở Đức cao hoàng,
Nguyễn Tồn chiêu tập hai ngàn mên binh.
Thảy dân Mân – Thích Trà Vinh,
Thúc thành đội ngũ gọi binh Xiêm đồn.
Truy nguyên sự tích ông Tồn,
Người Mên vua đặt Nguyễn Tồn tánh danh.
Sau thăng Điều Bát chức vinh,
70. Một mình cai quản Xiêm binh các đồn.
Nay miễu ở vàm Trà Ôn,
Miễu ông Điều Bát hiện tồn anh linh.
Quấc vương thuỷ thổ hậu tình,
Biển dâu đổi cuộc tiếng lành khôn mua.
Ngày sau tứ tánh nhờ vua,
Kim, Sơn với Thạch quê mùa dấu roi.
Nhà việc Minh Đức hẳn hỏi,
Trên có cung biểu để coi ngày giờ.
Thanh Nhơn hay sắm xe tờ,
80. Chịu khi đưa khách đưa thơ các đường.
Ngoài vàm cô chợ thường thường,
Tràm hai bên lộ dặm trường vãng lai.
Rẫy trồng bông trái nhặt sai,
Tôm cua cá biển bán hoài cả năm.
Trầu cau không có bao lăm,
Cải dưa bắp mía đất nhằm chỗ yêm.
Trà Vinh có cảnh chùa chim,
Chùa Mên thờ Phật mà chim ở đầy.
Trời sanh vât mọn cũng hay,
90. Nghỉ ngơi tìm chỗ kết bầy quá khôn.
Trà Phú tổng Đôn Hoá thôn,
Người qua kẻ lại tiếng đồn đã lâu.
Khen loài cầm điểu ở đâu,
Từ bi cảnh giới nhóm nhau kẹo lền.
Thầy tu xin phép quan trên,
Không cho bắn phá vậy nên vững vàng.
Chim kia còn biết chỗ nhàn,
Người trương cung ná nó càng bay cao.
Huống chi cửa Phật ra vào,
100. Háo sanh ố sát ai nào nỡ tay.
Gừng sậy mùi thơm ít cay,
Đờn bà làm mứt Trà Vinh nhắc hoài.
Kinh vào Chợ Trốt mới khai,
Đường đi các tổng dặm dài vơi vơi.
Khó bề nước uống nơi nơi,
Khi nhờ bàu giếng khi trời mưa chung.
Tướng Mên khi ấy loạn trần,
Sa-Som khởi nghịch dậy rân một miền.
Đương hồi Thiệu Trị tam niên,
110. Trần Hoài, Bố Chánh ngài liền xuất binh.
Hiệp cùng tri huyện Trà Vinh,
Người nguyên khoa mục tên Huỳnh Hữu Quan.
Phất cờ giục trống ó vang,
Thừa cơ hỗn chiến đánh tan trận đầu.
Mên nghe súng nổ chạy nhầu,
Trốn trong rừng bụi toan âu ngăn ngừa.
Rủi thời Quan Bố bị mưa,
Vào chùa tạm nghỉ binh thưa đề phòng.
Quân Mên tràn nhảy vô trong,
120. Đương cơn bất ý chém ông Trần Hoài.
Chém luôn quan Huyện cả hai,
Quân ta rã chạy đường dài trốn đi.
Hai ông hiển hiện bất kỳ,
Bắt quân Mên thảy tức thì phát đau.
Lớp sôi bụng lớp nhức đầu,
Kể dư trăm đứa cùng nhau hãi hùng.
Dẫn Sa-Som nạp chẳng dung,
Cất lên miễu võ tại trong Ô Đùng.
Bốn mùa hương hoả thạnh sung.
130. Làm tôi thờ chúa hiếu trung trọn nghì.
Tại làng Hiếu tử y nguy,
Tục kêu lăng miễu vậy thì đến nay.
Có câu liên đặt rất hay,
Một bên bảy chữ dán rày trước.
[Lược câu đối - xin xem ảnh chụp đính kèm]
Lòng thành khả tác cữu nguyên,
Dẫu nơi mang mạch linh thiên tiếng đồn.
Trung can nghĩa khí lưu tồn,
Xác ma nằm đó mà hồn đã thăng.
Căm loài chim chuột liếu lăng,
140. Nghịch trời thì mắc lưới giăng giữa trời.
Hạo nhiên chánh khí đời đời,
Ngàn thu huyết thực một nơi Miên tràng.
Lầu bà Cố Hỉ ba làng,
Ba làng ba chỗ nghiêm trang ba toà.
Trường Lộc, Phú Thứ, Thạnh Hoà,
Trong bà thôn ấy có ba cái lầu.
Thờ bà Cố Hỉ đã lâu,
Người hay van vái nguyện cầu lắm khi.
Sắc phong Cố Hỉ Tiên Phi,
150. Sơn Minh Hải Tạng còn ghi chữ đề.
Tứ bàn chùa miễu ê hề,
Tại nơi Ba Động tư bề đẹp đông.
Chánh làng Trường Lộc thôn trung,
Chùa Phật miễu Cố lăng Ông đình Thần.
Đều là tráng lệ thanh tân,
Thường khi tế tự thói dân kỉnh thành.
Lễ nghi roi dấu để dành,
Thủ khoa Hoằng trước tác thành lưu lai.
Tục siêng rẫy ruộng lưới chài,
160. Nhơn dân trù mật trong ngoài lịch xinh.
Tang hôn thù tạc hậu tình,
Gốc xưa nhơn nhượng của mình còn dư.
Ngặt vì nho giáo vô sư,
Không ai dạy dỗ khải ư nhi đồng.
Có ông phủ Lỏi giàu lung,
Nay đà hưu trí dưỡng dung thanh nhàn.
Bãi bùn nhiều mả cựu quan,
Tại thôn Phú Thứ trong làng còn nguyên.
Xanh quanh tứ cận xóm riềng,
170. Thường niên tế tảo cảm phiền bởi đâu.
Choạnh tình tấc đất ngọn rau,
Tưởng người trên trước mình sau hết lòng.
Miễn là làm phải là xong,
Xét soi chứng có vun trồng cao sâu.
Làng Long Hậu, rạch Thân Râu,
Giếng bến Bà Sở nước đâu có thường.
Ghe phen giải khát quân vương,
Cao hoàn thuở ấy lắm đường khỏ lao.
Mộ quân đóng tại Cồn Ngao,
180. Nhiều khi thất trận tại hòn Cỗ Chiên.
Đạp thay phong cảnh Cỗ Chiên,
Ba làng đông đảo điền viên mỹ miều.
Xứ trồng đồ rẫy cũng nhiều,
Trên rừng dưới nước lợi đều giăng giăng.
Cá Ông thờ một sở lăng,
Hàm còn hiện tại cao bằng người ta.
Miễu coi không mấy nguy nga,
Song bề tế tự cũng là kỹ cang.
Cù lao Phụng, cù lao Bàng,
190. Cách nhau trên dưới một ngàn dòng xanh.
Nhớ xưa Khâm mạng triều đình,
Có quan Đại sứ kinh dinh cương trường.
Tên là ông Nguyễn Tri Phương,
Đồn điền thiết lập ruộng vườn phá khai.
Trà Vinh cuộc đất rộng dài,
Quân đồn điền ước hơn vài ngàn dân.
Cầu Ngang Trà Cú xa gần,
Đào kinh khẩn đất lần lần mở mang.
Ngày nay ruộng tốt muôn ngàn,
200. Công ơn quan Nguyễn nhẩy tràng Trà Vinh.
Cầu Ngang chỗ rất lịch thanh,
Ông Lưu Minh Mẫn rạng danh tiền hiền.
Sửa làng Minh Thuận mối giềng,
Nay còn ngày kị thường niên rỡ ràng.
Giữa chừng gặp lúc rối loàn,
Có ông phủ Nhiễu kĩ càng sắp bày.
Hiện đà hưu trí ngày nay,
Vợ hầu sung túc no say cuộc trần.
Thầy chánh tổng Hợi có phần,
210. Công lao giúp nước thận cần bấy lâu.
Hiện kiêm thi đậu huyện hầu,
Đợi tờ thăng hỗ chói màu gấm thêu.
Giàu mà tánh ý không kiêu,
Giữ nền phước đức kẻ yêu người vì.
Tục nơi Bến Có rất kỳ,
Thuộc tổng Trà Phú làng thì La Vi.
Mỗi năm thập nguyệt đáo kỳ,
Lễ Ót Tầm Bốc gốc thì của Mên.
Che chòi buôn bán hai bên,
220. Nhóm nơi Bến Có dưới trên sum vầy.
Nội trong ba bốn đêm ngày,
Dừa tươi với chuối đông đầy người ta.
Bữa đầu kể bữa mười ba,
Đến ngày mười sáu nhóm mà luôn luôn.
Dập dìu Hớn, Thổ không buồn,
Ba-Ngoe bông vụ bày tuồng ăn thua.
Chuối dừa Mên thảy đi mua,
Mua nơi Bến Có cúng chùa quí hơn.
Lưu truyền lệ của cổ nhơn,
230. Ông bà người Thổ khéo cơn đặt bày.
Ao Vuông cảnh cũng đẹp thay,
Tại Trà Phú tổng ranh ngay hai làng.
Lượng Sa, Đôn Hoá, rõ ràng,
Dấu xưa tích cũ coi càng vui say.
Ước chừng hai ngàn thước tây,
Tư bề vuông vức thẳng ngay một toà.
Dưới thời ngư thuỷ liên hoa,
Trên thời bờ luỹ diềm dà cây giăng.
Tiếng Cu-bà-rẹt-ta-băng,
240. Nguyên là tiếng Thổ bổn căn chuẩn thằng.
Dịch ra tiếng Hớn gọi rằng,
Luỹ-ao-hồ-Phật Chà văn vậy mà.
Dịch thành ra chữ nhu ta,
Tiếng người cải dụng kêu là Trà Vinh.
Thuở cựu có Phường Nữ Trinh,
Tại Lai Vi xã niên kinh bại tàn.
Thị Tuông tuy gái Mên mang,
Mà lòng nghĩa liệt trinh nhàn khả phong.
Trinh Phường trải mấy thu đông,
250. Ngói vôi xiêu ngã sạch không tan tành.
Thầy Cai tổng Huỳnh Nhựt Thanh,
Chuyện làm phải nghĩa mình đành khải đoan.
Thiện nam tín nữ lân bàn,
Chung tiền sửa lại kĩ càng như y.
Trung tu nghiêm chỉnh oai nghi,
Bốn mùa hương khói vĩnh vi để đời.
Cây liên trước cửa rạng ngời,
Triều đình thưởng tứ miệng người đọc vang.
[Lược câu đối - xin xem ảnh chụp đính kèm]
Trải xem giồng Tượng bãi Xang,
260. Nhà thờ Thiên Chúa vẻn vang hai từng.
Tứ bàn hoa thảo thanh tân,
Mỗi tuần giảng dạy thói dân thuận hoà.
Ruộng vườn no đủ mọi nhàn,
Đọc kinh xem lễ trẻ già khôn lanh.
Lại thêm Bà Phước hiền lành,
Đồng nam đồng nữ trưởng thành thất gia.
Vàm Láng Thé, làng Long Hoà,
Có tên Bãy Lợi phát ra làm thầy.
Dại điên dốt nát quá tay,
270. Thân chủ lui tới đông dầy đồn rân.
Chuyện làm hoặc thế vu dân,
Khen cho thiên hạ rần rần nghe theo.
Dị đoan phĩn dỗ nhầm deo,
Rồi ra lầm lỗi hiểm nghèo biết nhiêu.
Bình Phước thầy cai tổng Nhiều,
Sanh tiền diện mạo mỹ miều nghiêm trang.
Tu mi đoan chánh dịu dàng,
Phong lưu nho nhã các làng nhắc trông.
Vũng Gù qua đó dưỡng dung,
280. Qui dân lập ấp mở sung mối giềng.
Dựng làng Khánh Lộc nên riêng,
Việc quan cần cán nhọc siêng công trình.
Bấy lâu về cõi âm minh,
Không con có cháu gia đình nối sau.
Hương chủ ông Lâm Quan Châu,
Lập làng Huyền Thanh buổi đầu sơ khai.
Chợ kêu Ất Ếch lâu dài,
Dựng nên sự nghiệp trong ngoài Trà On.
Ông Lâm Quan Phước là con,
290. Chuyên nghề làm ruộng sắc son sức mình.
Tên ngoài người gọi Tổng Minh,
Làm ra cự phú tiếng vinh Nam kỳ.
Thiệt là giàu lớn bực nhì,
Với ông Phát Đạt đều thì tay sang.
Chịu hai muôn bạc với quan,
Để mà mua sỏi đổ trang trên đường.
Ước bảy ngàn thước bề trường,
Tại nơi Ô Chát đầu đường ngã ba.
Giáp vô Huyền Thạnh xa xa,
300. Khỏi lo bùn lấm vào ra dễ dàng.
Nay đà tách chốn suối vàng,
Tử an sanh thuận danh càng thơm rơi.
Đông con đông cháu nối đời,
Có tên Quan Vận lập nơi học trường.
Tác thành trẻ nhỏ thôn hương,
Bao nhiêu tổn phí lo đương của nhà.
Cần Chông xứ rất hào bao,
Cư dân trù mật phố nhà thạnh sung.
Bắc ngang cầu sắc qua sông,
310. Ở xa ngó tợ hình rồng cong cong.
Cả đồng Rạch Lọp minh mông,
Phì nhiêu điền địa lúa sung hằng hà.
Những người các xứ vào ra,
Lập thành sự nghiệp thất gia ở đều.
Mùa mưa mòng muỗi quạnh hiu,
Qua mùa thâu hoạch biết nhiêu bạc tiền.
Thạn In Hiệp Quản đồn điền,
Thạch Vầu nối chức dạ chăm làm người.
Đẹp thay Mặc Bắc thanh tươi,
320. Nhà thờ Thiên Chúa một nơi chỉnh tề.
Mỗi tuần kinh sách phủ phê,
Tại làng Long Định tư bề quá đông.
Sông cái ngoài vàm Cần Chông,
Ngó ngang vàm Tấn minh mông liên bì.
Tiếng đồ cá cháy Nam kỳ,
Cá nơi sông ấy vậy thì có danh.
Bắc Trang địa cảnh cũng xinh,
Song mà phong tục tệ tình chưa an.
Trữ hoa trộm cướp trong làng,
330. Thuốc thư kiện cáo tiềm tàng hại nhau.
Đổi qua phủ huyện trước sau,
Không phương sửa trị đã lâu vậy hoài.
Có nhà giàu lớn lâu dài.
Đội mười Nhơn trước đa tài đa đinh.
Ngã ba Trà Cú kinh dinh,
Mình làm suất đội nổi danh đồn điền.
Ông Nhơn người có đức hiền,
Mấy năm gầy dựng mối giềng vĩnh vi.
Nay còn con cháu nhơn nghì,
340. Nhờ xưa phước ấm đều thì giàu sang.
Một trăm tám chục ba làng,
Trà Vinh toàn hạt đất càng rộng quanh.
Thanh Lệ, Minh Đức, châu thành,
Bấy lâu thói tệ trớ trinh nhiều bề.
Thuở quan Tham biện Lang Lê,
Bị quân thích khách nhảy kề chém tay.
Số ngài cũng gặp hồi may,
Chẳng chi thì đã xuống rày âm cung.
Sau thêm danh Trọng hành hung,
350. Sát nhơn bạch nhựt mạng đồng phù du.
Thông chánh chuyện không đáng thù,
Bắn quan Biện lý tu du bỏ mình.
Quấc gia cứ lẽ công bình,
Hai người xử tử phân minh răn người.
Nghĩ đi nghĩ lại nực cười,
Mang câu huyết khí ở đời sao xong.
Lắm người không xét đục trong,
Đặt vè tầm bậy điên khùng bia danh.