Trong bài tôi viết bằng lòng dân, tình dân, hồn dân của Dạ Sinh in trên Sài Gòn giải phóng, chủ nhật 22-4-2001, nhà thơ N.D có nói như sau: “Bây giờ, ai cũng làm thơ, ai cũng in thơ, nhưng gặp thơ chỉ gặp các xác chữ vô hồn, tôi có cảm giác bây giờ người ta thấy tiện thì... làm, không tiện thì thôi. Cả cánh rừng thơ cứ xanh nhờ nhờ, chẳng tìm thấy cây nào ra cây nào...”

Khi xổ toẹt cả thơ “bây giờ” như thế, tôi e rằng ông N.D thiếu khách quan, hoặc là thấy rừng mà không thấy cây, hoặc là vơ đũa cả nắm chăng? Nói như thế khác nào bảo rằng lúc tôi nghỉ làm thơ, trên đất nước này không còn thơ hay nữa (!) Bằng những bài phê bình thơ in trên báo Văn nghệ trẻ, chúng tôi muốn chứng minh cùng quí vị rằng, với lớp trẻ “bây giờ”, thơ vẫn đang tồn tại một cách tâm huyết, thơ vẫn tiếp tục tiến lên, vẫn tiếp tục hay chứ không phải “chỉ là cái xác chữ vô hồn” như ông N.D nhận xét. Thơ hay thứ thiệt, thời nào cũng rất hiếm, rất ít. Kể cả thời “thịnh thơ” 1932-1945. Ngay cả thơ 1975-2000 đã được chọn bởi một hội đồng tuyển chọn uy tín và nghiêm túc đến thế, nhưng trong tuyển thơ ba tập vừa phát hành của nhà xuất bản Hội nhà văn, muốn tìm một bài thơ hay đích thực cũng có thể phải lục toát cả mồ hôi giấy.

Đọc thơ trẻ “bây giờ” và văn hoá đọc thơ bao giờ cũng vậy: cần đọc bằng tấm lòng gạn đục khơi trong, đãi cát tìm vàng chưa đủ; còn phải có con mắt xanh mới tìm ra thơ hay trong bạt ngàn thi tập. Nếu cứ ngồi ì trong “tán cổ thụ thơ mình” mà ngó cổ ra nhìn đám trẻ “bây giờ” bằng nửa con mắt, thì cả thế gian thơ này có thể bị cớm hết, sẽ không một hạt mầm thơ trẻ nào có thể mọc lên mà xanh cây được nữa. Chao ôi! Nếu một đất nước mà “bây giờ” thơ chỉ là “cái xác chữ vô hồn”, nghĩa là không còn một lớp thơ trẻ đúng nghĩa, thì thơ Việt Nam đã gặp một đại hoạ là sự tuyệt tự thơ vì không người nối dõi ư? Tôi có thể chịu khó ngồi đọc 30 bài thơ dở của một vị nào đó, hy vọng đến bài thứ 31 lại là một bài thơ hay thì sự thể đã khác hoàn toàn. Chỉ cần trong tập thơ kia với với 49 bài thơ kém, thơ dở, tôi tìm được một bài thơ hay thì thắng lợi của mình đã nhiêù lắm rồi,mừng lắm rồi. Khi đó tôi quên béng đi 49 bài thơ dở kia và chỉ nhớ tác giả này đã góp cho thi đàn một bài thơ hay. Với cách đọc như thế, tôi mở tạp thơ Mây bay do Sở văn hoá thông tin Hoà Bình xuất bản năm 2000, của một anh bộ đội đang công tác tại Tỉnh đội Hoà Bình là anh Nguyễn Anh Nông vừa gửi tặng tập Mây bay với 44 bài, dễ có đến gần ba phần tư là những bài thơ trung bình, thậm chí có bài kém. Tác giả còn viết khá nhiều câu thơ dễ dải, mòn xáo như sau: Và đôi mắt em dịu dàng, quyến rũ/ Tâm hồn em xao xuyến, bồn chồn... Vó ngựa gõ chiều nhung nhớ... yêu em mãnh liệt... có khi, Nguyễn Anh Nông còn để sót chất báo tường trong thơ mình như trong bài Nếu mà em thích thế có đoạn sau: Trả trách những người lính/ đi đâu cũng có bồ.../ Tôi nói nhỏ đâu em/ anh cô đơn, trống trải/ chỉ có một bạn gái/ giờ đây đã lấy chồng/ em hỏi: có thật không/ đừng tưởng đây ngốc nghếch/ em biết cánh đàn ông/ các anh đều nói róc...

Nhưng dù có những câu, những bài viết yếu, kém như thế đi nữa, cuối cùng sự kiên nhẫn, đãi cát của tôi đã tìm được vàng trong tập Mây bay. Những câu, những bài kém của Nguyễn Anh Nông tưởng như chợt theo mây mà bay đi đâu mất. Chỉ còn thơ thứ thiệt, thơ hay đậu lại. Thật bất ngờ, một anh nông dân mặc áo lính, quê Quảng Xương, Thanh Hoá, sống ở Hoà Bình “bị” tôi trích ra ngờ nghệch kia, lại đãi tôi một bài thơ hay đến thế:
Hai chàng từng là địch thủ
Choảng nhau có lúc mẻ đầu
Bây giờ xanh hai nấm đất
Khói hương thi thoảng thăm nhau.
(Cảm tác)
Đọc bài thơ này, tôi cứ ngồi ngẩn ra, không thể đọc tiếp được nữa vì có bao điều từ bài thơ truyền vào làm cổ họng tôi, tim tôi ứa nghẹn xúc cảm, tràn ngập suy tư, mê man nỗi niềm sống chết phận người. Tục ngữ bảo: “Đánh nhau chia gạo, mời nhau ăn cơm”, tôi xin mượn tinh thần câu tục ngữ này để nói về bài thơ rất hay trên của Nguyễn Anh Nông “Đánh nhau khi sống, mời nhau khi chết”. Cái chết kia chợt nhân đạo quá chừng, có một nén hương cắm mộ này mà khói cũng chia phần cho cả nấm mộ “địch thủ” kia, mà chia phần “thi thoảng” vì khói còn bẽn lẽn làm quen, làm thân. Khói còn thay người ngường ngượng, ân hận vì lúc sống từng choảng nhau mẻ đầu. “Khói hương” hay chính hình ảnh hai linh hồn kia xám hối, chìa khói sang nhau như cố ý làm một sợi lạt hư vô buộc hai nấm đất vào nhau cho bớt lạnh, bớt cô đơn? Khói hương thi thoảng thăm nhau là câu diệu bút nâng hiệu quả bài thơ lên cõi vô bờ. Về nghĩa thực, đúng là khi thắp hương ở phần mộ này thì bao nhiêu khói bay sang phần mộ kia gần hết. Thành ra thắp hương cho một người mà hương toả cả hai. Có khi hai nhà đến thắp hương cùng lúc, hoặc nhân thắp cho mộ này, tiện tay, người sống cũng thắp tràn sang mộ bên một nén cho bên kia đỡ tuổi. Nhưng nghĩa bóng của bài thơ, câu thơ đã vượt qua cây hương mà thấm vào phận người, thấm vào cả tạo hoá, vào nỗi thiện ác, ghét thương.Thơ chúng ta, giá mà trong lúc nhập đồng, làm được thiên chức” khói hương” kia để “Thi thoảng thăm nhau” như một an ủi, một dìu dắt, một ân sủng, một sự làm lành vĩnh cửu giữa sống và chết, giữa tuyệt vọng và hy vọng, giữa bất hạnh và hạnh phúc? Bài thơ Cảm tác trên của Nguyễn Anh Nông có thể đứng đàng hoàng trong bất cứ truyển tập thơ sang trọng dù chọn khắt khe, chọn theo tiêu chuẩn “Vip” cỡ nào cũng vẫn giữ được cái hay riêng của nó mà không một bóng đa đề nào có thể che phủ. Thơ lấy chất mà đánh bạt lượng, lấy chỉ một cái hay đích thực, hay cỡ các mét(mai tre: bậc thầy) mà đánh bại 99 cái dở là vậy đó. Nguyễn Anh Nông còn có một bài thơ khác khá hay, hay ở tứ như sau: Chiều/ hai đứa trẻ/ vật nhau trên cỏ/ chỉ vì một con dế cụ/ Đêm trăng tỏ/ hai người lớn tuổi/ rì rầm trên cỏ/ chỉ vì một đứa trẻ con. Bài thơ nhỏ nhắn như một bức thuỷ mặc của niềm vui sống. Nguễn Anh Nông như một “nhà dế học”, hay viết về nỗi niềm tiếng dế. Bài thơ dưới đây sẽ là bài thơ khá, nếu tác giả chịu khó lao động chữ chút nữa:
Có ai nghe mà mi dóng diết
Biển ngoài kia ào ạt xô bờ
Trăng cứ sáng bời bời, ai tỏ
Tiếng dế gào biết mấy tâm tư
(Tiếng dế biển)
“Dóng diết” với “gào” là tâm tư, siêu tâm tư rồi, hà cớ gì tác giả còn hạ một chữ”tâm tư”rất thừa mà không hợp cảnh, tình ở cuối câu 4? Theo tôi, nên sửa từ “tâm tư” bằng từ “bơ vơ” thì tiếng dế trên càng mồ côi kẻ tri âm hơn, thống thiết và cô đơn hơn ngay giữa ồn ã biển. Nguyễn Anh Nông còn có bài lục bát khá viết về thân phận người đàn bà goá chồng, phải ghì vào cõi phật mà thuỷ chung với người khuất bóng, với đoạn kết khá cảm động sau:
Nhớ ngày giỗ anh, tôi về
Chị ngồi gõ mõ thầm thì hư vô
- Chị ơi! Chị đáp Nam mô
A di đà Phật... Sững sờ bóng quen
Thế thì thôi, thế thì tin
Cõi người, cõi Phật biết vin cõi nào?
(Cõi thu)
Nguyễn Anh Nông trong bài Phân thân tả chuyện người hoá thân thành con chồn để cào bới đất mà tìm người yêu: em có là củ mài củ vớn/ anh cũng đào, cũng bới em ra. Thơ hay có khi cũng chìm sâu dưới trang giấy như củ mài, củ vớn. Người đọc đôi khi phải sử dụng cả phương pháp tiếp cận của loài chồn là dùng tấm lòng để thấm suốt bề dày trang giấy, chứ không phải thô thiển chơi móng vuốt mà bới được thơ. Có khi Nguyễn Anh Nông viết được câu thơ thi sĩ bằng nỗi cảm về tiếng ve rang bỏng ngói bầu trời: tiếng ve rang bầu trời khô như ngói. Có lần tác giả đưa được từ “cổ điển” vào trong một câu thơ tình rất có duyên: Em cứ đuổi theo anh như hình, bóng/ ta thành người cổ điển lúc yêu nhau.

Nguyễn Anh Nông còn phải phấn đấu nhiều mới thành một tác giả đích thực. Anh cần phải sống thơ, đọc thơ, thể nghiệm thơ nhiều hơn nữa để thoát được cái vụng về của kẻ mới vào nghề. Bằng cách xua đuổi mọi sáo mòn, mọi lối viết vô cảm, dễ dãi, đường được ra khỏi thơ mình. Khi anh đã viết được một số câu, số bài hay và khá như trên, tôi tin rằng Nguyễn Anh Nông còn có thể đi xa trong hành trình thơ. Xin chép một câu thơ thật hay trong bài thơ Thảo nguyên đêm của anh để kết bài viết này:
Rượu cần mới nhấp đôi ba giọt
Chân tay cũng có nỗi niềm riêng
Nguyễn Anh Nông vừa cho chúng ta nhấp “đôi ba giọt” rượu cần thơ mà chữ nghĩa đã truyền vào hồn ta chất men mỹ cảm. Nhà thơ muốn tạo nên thơ ca đích thực, dứt khoát phải là người chân tay cũng có “nỗi niềm riêng” như thế. Để người đọc, đọc xong thơ anh, thấy chân tay mình mang “nỗi niềm riêng” thi sĩ, chạm vào đâu cũng thành rung động, thành tình yêu, như thể thi ca đã lại lên ngôi báu trăng mật giữa hồn người.

Trần Mạnh Hảo

Mây bay đi: thơ Đậu Lai.

Bài viết này đã được in trên báo Văn nghệ trẻ số 18 (232) chủ nhật 6-5-2001 và in báo Quân đội nhân dân cuối tuần số 316 (592) ngày 20-1-2002.