Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) và Tú Xương (1870 -1907) về cơ bản là những thi sĩ của thế kỷ 19, bởi họ sống rất ít với thế kỷ 20 - người chín năm, người có bảy năm. Tản Đà thì khác, chào thế kỷ 20 lúc mới lên mười một tuổi, ông còn cả cuộc đời khá dài phía trước, với ba mươi chín năm lăn lóc với thế kỷ nhọc nhằn này. Không chỉ sống cùng, ông còn chết sau cả một nhà Thơ Mới trẻ trung như Nguyễn Nhược Pháp nữa kia. Ấy thế nhưng ông vẫn là cái cây mọc lên từ thế kỷ trước, uống đòng sữa của hai ngàn năm Nho học và lấy thế kỷ 19 làm quê hương, bởi “quê hương đồng nghĩa với tuổi thơ” theo cách nghĩ của tôi. Phong thái sống của ông dẫu có bị thời thế mới làm cho chao đảo ít nhiều nhưng vẫn còn nguyên cốt cách của ngày xưa. Và thơ ông vốn trung thực với hồn ông nên nó cũng mang cốt cách như vậy. Đó là một con người dẫu ngoài cửa miệng có nói gì thì nói, trong đáy lòng vẫn nguyên vẹn một niềm tin vào những giá trị cao quý bất di bất dịch của phẩm giá con người, cái niềm tin khiến ta còn nhớ mình là ai và không chịu để tuyệt vọng biến mình thành giẻ rách. Điều đó giữ cho tâm thế của lớp người này mang sẵn một niềm lạc quan từ trong gốc rễ. Bài thơ mà ta đang nói tới ở đây - bài
Thề non nước - thấm đẫm tinh thần đó.
Bài thơ là sự cụ thể hoá câu thành ngữ cổ điển: “Thệ hải minh sơn” (thề non hẹn biển). Đó có lẽ là câu tiêu biểu nhất có sức khái quát cho mọi sự thề thốt ở trên đời, tuy nhiên nó có nghiêng hơn về phía của những lời thề thốt trong mối quan hệ riêng tư giữa hai con người. Điều khác nhau cơ bản giữa bài thơ và câu thành ngữ là ở chỗ: Nếu như trong câu của người xưa, non và biển được dùng với tư cách độc lập, đơn giản là được mượn từ phẩm chất bền vững và to lớn để gửi gắm những phẩm chất tương tự của hồn người - một lối ví von tất thông dụng, thì trong thơ của Tản Đà, “biển” đã được thay bằng “nước” - hai hình ảnh “non” và “nước” không còn đơn giản là đối tượng để so sánh trong thế bất động, mà quan trọng hơn nhiều là mối tương quan khăng khít keo sơn giữa chúng. Câu trên là con người mượn non và biển để thề, còn ở đây là non và nước thề với nhau. Cả bài thơ do vậy được xây dựng trên một cái tứ chung: “nước đi ra bể lại mưa về nguồn” - vòng lưu chuyển của nước từ ruột đất chảy thành sông suối, tuôn ra biển, rồi biển lại bốc hơi thành mây, mây hoá thành mưa, mưa lại rơi xuống đất... Đó là quy luật của trời đất. Đem quy luật của Hoá công mà vận vào chuyện đời và hồn người theo cái phía tích cực như vậy là chứng tỏ cái cốt cách ngày xưa như ta đã nói ở trên nơi nhà thi sĩ này còn vững chãi biết chừng nào. Bởi ngay từ xưa kia, trong tâm thế con người, cõi Vô thường của Tạo hoá hầu như chỉ được cảm nhận từ phía tiêu cực, phía ảm đạm mà thôi. Đọc những câu:
Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Nước non hội ngộ còn luôn
Bảo cho non chớ có buồn làm chi
Nước kia dù hãy còn đi
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui...
Ta nhận ra trong đó một ý thức chủ động, một sự cố gắng để vui. Và quả thật vì thế nó không giấu nổi một cảm giác ngậm ngùi, tội nghiệp.
Tôi đã đi ngược bài thơ từ dưới lên, vì muốn khẳng định tấm thịnh tình nhân hậu của tác giả muốn gửi đến con người một thông điệp về niềm tin tưởng. Nhưng bất chấp lý lẽ của cái đầu với những tính toán sáng láng của quy luật, cả bài thơ vẫn nhuốm một sắc thái buồn buồn. Phải chăng, trong hai tâm thế đang khắc khoải về nhau ở đây thì với người đi tức là “nước” - thường vẫn nhẹ nhàng hơn: Dẫu sao người đi vẫn còn được phân tán hồn mình trong những bận rộn và đổi thay của cuộc hành trình; còn người ở lại mới thực là trơ trọi, một mình đối diện với hồn mình, mà cảnh trí của kỷ niệm thì mãi còn bày ra đấy như trêu ngươi, cũng tựa như chinh phụ nhớ chồng chắc là phải da diết, tái tê hơn chinh phu nhớ vợ. Có lẽ vì thế chăng mà phần thơ gồm 12 câu phía trên mới đẹp và buồn đến thế. Sau thủ pháp cấu tứ bằng hiện tượng lưu chuyển của nước trong tự nhiên, thủ pháp then chốt của bài thơ là một ẩn dụ toàn bài: Chuyện non và nước chẳng có gì khác hơn là chuyện của con người. Cũng có thể gọi đó là nhân cách hoá và phép nhân cách hoá này nằm chủ yếu trong phần đầu - phần tả “non” với những hình ảnh quá đẹp:
Non cao những ngóng cùng trông.
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày
Điều đảm bảo cho ẩn dụ thành công là tính chính xác mà lại có sức gợi mở của các mối liên tưởng. Nếu hình dung ngọn núi như một con người thì nói con suối như dòng lệ của con người ấy đang lúc nhớ nhung thì không còn gì đúng chỗ hơn. Câu thơ thứ hai còn một dị bản: “Suối tuôn dòng lệ...” có một giai thoại nói rằng có một người vô danh đã sửa lại như trên, nhưng tôi tin người đó không phải ai khác là chính tác giả. Mỗi từ có một sức biểu cảm riêng và đều chính xác, nhưng từ “khô” có phần da diết hơn và rất phù hợp với văn cảnh tiếp theo:
Xương mai một nắm hao gầy
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương
Trời tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha
Cùng với câu trên kia, đây chắc chắn là những câu thơ đẹp nhất không chỉ của bài thơ mà còn là của cả nền thơ Việt ở thế kỷ này. Đẹp đến nỗi những ai có ảo tưởng mong tìm những lời khác để biểu đạt chính vẻ đẹp này thì đều bất lực, và không có cách gì khác hơn là phải mượn lại chính lời thơ. Từng từ một ở đây đều chở một dung lượng biểu cảm vừa chính xác trong tư duy cụ thể vừa mênh mông trong chân trời tưởng tượng nên có sức ám ảnh khôn cùng. Vẻ khô héo, tàn tạ, thê lương vừa rất “núi” vừa rất “người “ở đây đã đạt đến chuẩn mực của cái đẹp thẩm mĩ, với những từ “xương mai”, “hao gầy”, “tóc mây”, “tuyết sương”, “tà dương”, “phơi”, “vẻ ngọc”, “nét vàng”, “phôi pha”... Nếu như bài thơ chỉ có phần đầu này thôi thì rất có thể đặt cho nó một cái tiêu đề như “Phôi pha” chẳng hạn, cũng tựa như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sau này đã tận dụng tài tình cả ca từ và giai điệu để diễn đạt cảnh trí và tâm thế rất khó diễn đạt này trong một ca khúc tuyệt vời cũng có tên là “Phôi pha”
Và thế, cùng với việc dựng lên một cảnh nước non thanh sạch, tiêu tao, bài thơ không chỉ là lời tự tình đằm thắm của một tâm hồn thuỷ chung, tin cậy mà còn cất giấu trong mình một bức tranh thiên nhiên tráng lệ và quyến rũ mê hồn vì một vẻ đẹp như sinh ra bởi con người và cũng chỉ dành để cho con người.