Chưa có đánh giá nào
Đăng ngày 20/10/2021 21:10, số lượt xem: 293

Cùng cha đánh đuổi quân Lương,
Theo vua Nam Đế mở trương sử hùng (1).
Dương Phiêu, Trần Bá Tiên cùng,
Đem quân xâm lược nhà Lương tràn vào (2).
Vua giao lo việc binh đao (3),
Về đầm Dạ Trạch giữa cao quanh lầy (4).
Đi thuyền độc mộc đó đây,
Lỡ rơi xuống nước bỏ thây lún bùn.
Mênh mông lạc lối muôn trùng,
Lại thêm rắn độc khó lòng thoát ra.
Đường đi lối lại vào ra,
Quan quân hai vạn quân ta thuộc lòng (5).
Giấu mình du kích tấn công,
Đang đêm ra đánh cướp ròng quân lương (6).
Bá Tiên không biết đâu lường,
Dân ta gọi Dạ Trạch Vương chính ngài.
Lý Nam Đế mất, lên ngai,
Xưng là Triệu Việt Vương thay ngôi trời (7).
Bá Tiên bị triệu về rồi,
Ông tung binh đánh giặc thời bại quân.
Long Uyên đô nước Vạn Xuân (8),
Ông nhường Phật Tử nữa phần phía Tây (9).
Thông gia liên kết từ đây,
Không ngờ Phật Tử sắp bày mưu gian (10),
Cho con ở rễ Nhã Lang,
Thông tin bị lộ do nàng Cảo Nương (11),
Bất ngờ đánh úp Việt Vương.
Ra quân bị động tìm đường thoát thân.
Đem theo con gái về Nam,
Đại Nha biển cuối hết đàng liều thân (12).
Mỵ Châu Trọng Thuỷ gương gần (13).
Hai chàng Hống, Hát bao lần khuyên can (14).
Cảo Nương đừng gả Nhã Lang.
Thì đâu có cảnh điêu tàn nước non.

(1) Triệu Quang Phục là con của Thái phó Triệu Túc, người huyện Chu Diên. là. Ông cùng cha theo Lý Nam Đế khởi nghĩa từ ngày đầu (541)
(2) Tháng 5 năm 545, quân Lương do Dương Phiêu và Trần Bá Tiên[2] chỉ huy lại sang đánh Vạn Xuân.
(3) Năm 546 Lý Nam Đế giao chiến thua trận phải lui về động Khuất Lão, Lý Nam Đế đã uỷ thác cho ông giữ việc nước
(4) Ông lui về giữ đầm Dạ Trạch (bãi Màn Trò, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Đầm này rộng, cỏ cây um tùm, bụi rậm che kín, ở giữa có nền đất cao ở được, bốn mặt bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ dùng thuyền độc mộc nhỏ chống sào đi lướt trên cỏ nước mới có thể vào được. Nếu không quen biết đường đi thì lạc không biết là đâu, lỡ rơi xuống nước liền bị rắn độc cắn chết.
(5) Quang Phục thuộc rõ đường đi lối lại, đem hơn hai vạn người vào đóng ở nền đất trong đầm.
(6) ban ngày tuyệt không để khói lửa và dấu người, ban đêm dùng thuyền độc mộc đem quân ra đánh doanh trại của quân Bá Tiên cướp lương thực vũ khí, giết và bắt sống rất nhiều, lấy được lương thực để làm kế cầm cự lâu dài.
(7) Sau khi nghe tin Lý Nam Đế mất ở động Khuất Lão, Triệu Quang Phục tự xưng là Triệu Việt Vương.
(8) Thắng trận, Triệu Việt Vương làm vua nước Vạn Xuân, đóng đô ở thành Long Uyên
(9) Anh của Lý Nam Đế là Lý Thiên Bảo, vốn đã bị Trần Bá Tiên đánh bại, chạy vào ở đất của người Di Lạo, xưng là Đào Lang Vương, lập nước gọi là nước Dã Năng. Năm 555, Đào Lang Vương mất ở nước Dã Năng, không có con nối, quân chúng suy tôn người cháu là Lý Phật Tử lên nối ngôi, Ông nghĩ rằng Lý Phật Tử là người trong họ của Lý Nam Đế, không nỡ cự tuyệt, bèn chia địa giới cho ở phía tây của nước.
(10) Lý Phật Tử có con trai là Nhã Lang, xin lấy con gái của ông là Cảo Nương. Ông bằng lòng, kết thành thông gia. Ông yêu quý Cảo Nương, cho Nhã Lang ở gửi rể.
(11) Nhã Lang dụ Cảo Nương tiết lộ bí mật trong quân họ Triệu.
(12) Năm 571, Lý Phật Tử đem quân đánh úp Triệu Việt Vương. Bị đánh bất ngờ, Triệu Việt Vương ra quân trong thế bị động, không thể chống được, bèn đem con gái chạy về phía nam, tìm nơi đất hiểm để ẩn náu, nhưng đến đâu cũng bị quân của Lý Phật Tử đuổi theo sát gót. Ông cưỡi ngựa chạy đến cửa biển Đại Nha, bị nước chắn, bèn nhảy xuống biển tự vẫn
(13) Triệu Đà dùng con Trọng Thuỷ lấy Mị Châu con An Dương Vương và cho Trọng Thuỷ ở rễ lấy bí mật quân cơ An Dương vương và chiếm nước năm 179.
(14) Theo Đại Nam Quốc sử Diễn ca, Trương Hống và Trương Hát đã can Triệu Việt Vương đừng gả Cảo Nương cho Nhã Lang.