Tắc kè con vật biết nghe lời,
Xuất hiện nhà tôi ngày đẹp trời.
Bám đậu cạnh hồ nuôi cá kiểng,
Âm thầm đâu biết nó về chơi.
Thằn lằn quanh quẩn cá tìm xơi,
Không thấy nữa đâu chắc trốn rồi.
Có lẽ chúng nghe kêu tiếng lạ,
Vội vàng nhường chỗ tắc kè thôi.
“Lành thì cứ ở dỡ đi chơi”,
Lên tiếng người nhà mấy bận rồi.
Nó cứ bám lì gần bể cá,
Không đi chẳng chịu chủ lời đòi.
Mỗi ngày năm sáu tiếng “tắc kè”,
Vào lúc hoàng hôn đêm sắp về.
Kêu để báo rằng mình ở đó,
Biết đâu thông báo cùng loài nghe.
Những ngày sau đó tiếng “tắc kè”,
Vang vọng ở nơi hóc tủ chè.
Đối diện với nơi nhà nấu bếp,
Đêm về vắng vẻ gián bò lê.
Thức ăn mối, gián khó săn ghê,
Nghe tiếng kêu lên chúng sợ tê.
Lẩn trốn hốc hang đâu hết cả,
Chỉ săn ít ỏi lúc đêm về.
Chủ nhà đã sống ờ vùng quê,
Thông cảm cho loài bên cỏ huê.
Nó lại là loài người đuổi bắt,
Đem về ngâm rượu bổ phòng the.
Nhà không muốn chú rời tường khe (*),
Chú biết nghe lời chủ vổ về.
Bảo chú trở về nơi chốn cũ,
Sáng ra thấy chú biết nghe ghê.
Một cô gái trẻ ở nhà thuê,
Chú tắc kè vào ở cận kề.
Một sớm cô vê quê có việc,
Chú theo vào túi lên xe về.
Một tuần ăn được hai lần dế,
Mua ở cửa hàng cá kiểng về,
Chú thưởng thức xong kêu sáu tiếng,
Như lời cảm tạ có người che.
* Tắc kè thường trên tường, khe hở giữa vách và tủ.