Làm quan triều Lý ba đời,
Bình Chiêm, đánh Tống một thời dẹp an.
Thánh Tông, Thường Kiệt dẫn quân,
Ba ngày đã tới biên quan Chiêm Thành.
Đến thành Phật Thệ giao tranh,
Vua Chiêm Chế Củ bỏ thành trốn đi.
Tiến quân đến tận biên thuỳ,
Nước non Chân Lạp, Chế quy đầu hang (1).
Ba châu Ma, Bố, Địa dâng (2),
Quảng Bình, Quảng Trị, đất Thần kinh nay (3),
Vua tha Chế Củ về ngay,
Sáu năm sau Tống sắp bày xâm lăng (4).
Lý triều chuẩn bị chiến tranh,
Lý Thường Kiệt tính nên giành tấn công,
Trước thì giữ thế thượng phong,
Khâm, Liêm, Ung đánh chiếm xong dễ dàng.
Bắt tù khai khẩn Ái, Hoan (5),
Thành công Thường Kiệt khải hoàn thâu quân.
Phục thù Tống lại xâm lăng,
Tuyến phòng Như Nguyệt giặc tràn khó qua (6).
Chiến tranh tâm lý tung ra,
Đang đêm tiếng vọng từ nhà miếu xa.
“Sơn hà Nam quốc vua nay,
Tuyệt nhiên định phận tại đây sách trời.
Cãi lời xâm phạm đến rồi,
Chúng bay bị đánh tơi bời mà thôi” (7).
Giặc nghe tâm trạng rụng rời,
Quân ta phấn khởi địch thời bi quan.
Đang khi tướng Tống hoang mang,
Lý triều sai sứ thư sang giảng hoà.
Quách Quỳ chấp thuận ngay mà!
Chiến tranh chấm dứt nước nhà bình an.
Cuối đời dẹp loạn phiên bang,
Diễn Châu, Lý Giác, Chiêm Thành, Chế Na (8).
Chế Ma Na nộp lại ta,
Ba châu Chế Củ dâng quà năm xưa (9).
Dựng xây đất nước giúp vua,
Đê điều, đường sá, đình chùa trùng tu.
Sử ta ghi nhớ lời từ,
Tuyên ngôn độc lập ngọn cờ đầu tiên (10),
Vua Nam ngụ nước Nam riêng,
Nước ta độc lập với miền Bắc phương.
(1) Chế Củ chạy đến biên giới Chân Lạp, vì có thú với Chân Lạp nên về đầu hàng Lý Thường Kiệt.
(2) (3),Ba chậu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính: Châu Bố Chính là vùng lưu vực sông Gianh, ở mạn bắc tỉnh Quảng Bình. Châu Địa Lý là vùng lưu vực sông Nhật Lệ, ở mạn nam tỉnh Quảng Bình. Châu Ma Linh)Minh Linh) là miền bắc tỉnh Quảng Tri..
(4) Năm 1075, Vương An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với vua Tống là Đại Việt bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được.
(5) Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về nước. Nhà Lý cho những người phương bắc đó vào khai phá vùng Hoan - Ái (Thanh - Nghệ).
(6) Hoàng đế Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, lập chiến luỹ sông Như Nguyệt để chặn quân Tống. Sông Cầu từ địa phận Cao Bằng chảy đến Lục Đầu, hợp với sông Bạch Đằng.
(7) Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.” Núi sông Nam quốc vua Nam ở,
Định phận rõ ràng ở sách trời.
Giặc dữ cớ sao sang phạm đến?
Chúng bay sẽ thảm bại tơi bời.”(LTN dịch)
(8, 9) Năm 1104, vua Chiêm Thành là Chế Ma Na (Jaya Indravarman 2, 1086-1113) đem quân đánh và lấy lại 3 châu Địa Lý v.v... mà vua Chế Củ đã cắt cho Đại Việt. Lý Thường Kiệt đánh dẹp lấy lại 3 châu.
(10) Bài thơ “Nam quốc sơn hà…” được sử Việt xem là bảng “Tuyên ngôn độc lập” đầu tiê của Việt Nam.