Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Lê Ngô Cát » Đại Nam quốc sử diễn ca
Đăng bởi Vanachi vào 16/03/2007 16:03
1. Giao thiệp buổi đầu với nhà Minh
Mới sai sứ giả cầu phong,
Nghe gièm, Minh hãy còn lòng tin nghi.
Sai quan hội khám một kỳ,
Phong làm Đô thống, cơ mi gọi là!
Phùng Khoan sứ tiết cũng già,
Biểu từ biện chiết thật đà thiết minh.
Mấy lời ôn dụ đinh ninh,
Phong vương còn đợi biểu tinh có ngày.
2. Trịnh Tùng xưng chúa
Hổ lui, lang tới khéo thay!
Mạc kia vừa dẹp, Trịnh này lại lên.
Tùng xem căn cứ đã bền,
Công danh càng thịnh, uy quyền càng cao.
Rỡ ràng ngọc sách, tinh bao,
Gia phong Nguyên suý, dự vào sủng chương
Bình an lại tiến tước vương,
Gầy nên tiếm thiết, mở đường khải du.
Kính Tông còn độ ấu cô,
Đống lương ai kẻ xanh phù vạc Lê?
Triều thần những lũ Bùi Khuê,
Lại tìm Mạc nghiệt theo về Kính Cung.
Nghi Dương tro tắt lại nồng,
Thị thành nổi áng bụi hồng bởi ai?
Nhân khi giá ngự ra ngoài,
Thừa hư Mạc lại vào nơi đô thành.
Quan quân ra đánh lại bình,
Thặng dư mới phát tự Thanh ngự về.
Chông gai tuy sạch mọi bề,
Mà trong quyền cả chuyên về một tay.
Bốn phương tai biến đã đầy,
Đầm khô, núi lở, cát bay mù trời
Chẳng qua trăm sự tại người,
Gẫm cơ hưu cữu biết đời thịnh suy.
Súng đâu phục trước đường đi,
Để cho Trịnh chúa lại nghi Lê hoàng.
Sinh con gặp đứa vô lương,
Châu liên sao nỡ quên đường quân thân?
3. Trịnh Tráng tăng quyền phủ chúa
Thừa gia theo lối cường thần,
Vua Lê, chúa Trịnh nhân tuần đã quen,
Thần Tông vừa mới cải nguyên,
Sách phong Trịnh Tráng đã ban từ giờ.
Thành đô quyền trọng hơn xưa,
Nhà Lê cũng một giải thừa mà thôi!
Nước nhà đang buổi yên vui,
Xin vua xuống chiếu truyền ngôi nhẽ gì?
Chẳng qua là dạ gian khi,
Làm cho rõ mặt phúc uy tự nhà.
Chân Tông tuổi mới mười ba,
Hững hờ quyền chúa, ngôi cha mặc lòng.
Quốc vương Minh mới cải phong,
Bảy năm lịch số vừa chung một đời.
Xoay quanh mới tỏ đạo trời,
Báu thiêng đem lại cho người truyền gia
Thần tông thay giữ nghiệp nhà,
Thượng hoàng lại đổi mặt ra tân hoàng.
Thờ ơ cờ đạo nhà vàng,
Chính quyền phó mặc Trịnh vương, biết gì.
Nhà Minh thuở ấy đã suy,
Mượn binh lại sắp nhờ uy cường thần.
Sắc phong chiếu dụ ân cần,
Phó vương Trịnh lại thêm phần tôn vinh.
Cả giàu sang, lớn quyền hành,
Giang sơn chung một triều đình chia đôi.
4. Trịnh Tạc đánh Nguyễn và Mạc
Tiếm phong, Trịnh Tạc nối ngôi,
Tước vương mình lại tài bồi cho con.
Càn cương ngày một suy mòn,
Cuộc đời chìm nổi, ai còn hiệu trung,
Bản triều mở dấu Kỳ phong,
Thánh thần truyền dõi một lòng tôn Lê.
Quyền gian giận Trịnh nhiều bề,
Sắc sai Chiêu, Thuận khắc kỳ tiến chinh.
Sáu năm rồi mới bãi binh,
Luỹ dài còn dấu uy linh để truyền.
Vận Lê còn buổi truân chuyên,
Huyền tông thơ ấu để quyền Tây vương.
Đẳng uy đã biến lễ thường,
Vào chầu không lạy, miếu đường có ai?
Thiên nhan lại muốn sánh vai,
Giường ngồi đem đặt bên nơi ngự tiền.
Dọc ngang dưới phủ trên đền,
Mống tình cải bộ gây nền tranh vương.
Vũ công lại muốn phấn dương,
Đem quân đánh Mạc lại sang Cao Bình.
Mạc vào cầu viện Yên Kinh,
Phong làm Đô thống tung hoành cõi xa.
Bốn châu riêng một sơn hà,
Danh tuy phụ Hán, thực là thê Ngô.
Gia tông vừa nối cơ đồ,
Xe loan đã giục trì khu ra ngoài.
Phòng biên đã có tướng tài,
Quân ta một trận, luỹ dài phá tan,
Mã đầu đã trở quy an,
Hà trung Trịnh lại đặt quan lưu đồn.
5. Trịnh Căn và nhà Thanh
Về nhà lập lại Trịnh Côn (Căn),
Nam vương theo lối quyền môn một dòng.
Đêm ngày bí các thong dong,
Văn thần thay đổi vào trong chực hầu,
Quốc Trinh tham tụng ở đầu,
Bởi sao nên nỗi gây thù ưu binh?
Hy Tông hoàng đệ thay anh,
Ngôi không luống giữ, quyền hành mặc ai!
Bấy lâu chiếm giữ cõi ngoài,
Hãy còn Mạc nghiệt mấy đời đến nay.
Di thư sang với Quảng Tây,
Một lần hội tiễu từ này chạy xa.
Quân Thanh xâm chiếm đất ta,
Vị Xuyên, Bảo Lạc, Nà Oa, Lộc Bình.
Thổ quan lại có tư tình,
Tham vàng đem giới kệ chuyển di.
6. Triều thần nhà Lê
Bên ngoài xâm tước nhiều bề,
Ở trong chính sự chỉnh tề được bao?
Lễ gì hơn lễ bang giao,
Mà cho quan thị đứng vào đầu ban.
Thế mà những kẻ cư quan,
Cũng đành ngoảnh mặt cho toàn tôn vinh.
Tại triều mấy kẻ trâm anh,
Nguyễn Đang, Đồng Trạch công thanh một đường.
Thế Vinh tài học ưu trường,
Nguyễn Hành, Hà Mục văn chương cũng già.
Bởi ai thiên hạ âu ca,
Chẳng quan tham tụng Vạn Hà là chi?
Bởi ai thiên hạ sầu bi,
Chẳng quan tham tụng Lê Hy hãnh thần?
Tính đi nghĩ lại xa gần,
Nhiều phần vì Trịnh, ít phần vì Lê.
Mồi giàu sang đã say mê,
Lấy ai chỉ trụ làm bia trong đời!
7. Những việc cải cách về thời Trịnh Cương
Dụ Tông nối giữ ngôi trời,
Trịnh Cương chuyên chế theo loài cố gia
Lục phiên lại đặt tư nha,
Bao nhiêu tài phú đều là về tay.
Các quan trấn thủ mới thay,
Hưng Tuyên thống hạt từ rầy chia hai.
Vũ thần mỗi trấn một người,
Để cho vững thế mặt ngoài phiên ly.
Lấy năm điều khảo trấn ti,
Cứ trong điến tối mà suy hay hèn.
Thẩm hình đặt viện phủ tiền,
Sai quan tra kiện thay quyền pháp ti.
Vũ khoa mới đặt phép thi,
Hỏi đường thao lược, thử nghề dao cung.
Ba trường phúc thí đã xong,
Đề danh tạo sĩ bảng rồng cũng vinh.
Kén thêm tứ trấn binh đinh,
Vệ quân mới đặt sáu dinh từ rầy.
Công tư điền thổ xưa nay,
Sai quân khám đạc san tay dân cùng.
Tuần hành có sứ khuyến nông,
Giữ gìn đê lộ, xét trong dân tình.
Đem thư biện với nhà Thanh,
Mỏ đồng, mỏ kẽm lại giành về ta.
Lập bia trên Đổ chú hà,
Giới cương tự đó mới là phân minh.
Quy mô cũng muốn sức bình,
Mà lòng lăng tiếm tự mình ra chi?
Lập phủ đường ở Cổ Bi,
Toan đem kinh quốc dời về cố hương.
Đông cung đã lập Duy Tường,
Bỗng không lại đổi Duy Phường cớ sao?