Nghĩ mình phận má đào son phấn,
Hẳn duyên ưa phận ấm hơn người.
Hay đâu con tạo trêu ngươi,
Vô duyên bó buộc lấy người hồng nhan.
5. Khen cho đó cả gan nguyệt lão,
Đánh rượu nhè xe lếu nhân duyên,
Cớ sao như thiếp thiền quyên,
Không yêu thời chớ, còn ghen ghét gì.
Xét mình thể Tây Thi thuở nọ,
10. Mặt khuynh thành kim cổ vô song.
Khúc cầm đi đủ năm cung.
Tiếng tơ réo rắc tiếng đồng khoan thai,
Thi nọ biết thiên dài câu vắn,
Vũ lại hay cỡi bắn chim bay,
15. Cờ cao Đế Thích ngang tay,
Vẽ hay Như Ý còn nay học trò.
Trai Tư Mã Tương Như đời trước,
Dẫu có còn kiếm ngược tìm xuôi,
Ngàn vàng chưa dễ một cười,
20. Ngọc đem một đấu còn ngồi lu xu.
Nhìn nước bể sóng thu càng nhộn.
Lũ anh hùng mắt trợn say mê.
Say mê cắp áo mà về.
Hỏi thăm bể khổ sông mê đường nào.
25. Mặc xa mã xôn xao ai ấy,
Chốn khuê môn then máy chẳng rời.
Nghĩ mình muôn sắc hoa tươi,
Chim anh ngó đến miệng cười cũng say.
Thói băng tuyết dám rời tiết ngọc.
30. Một nhà vàng đẫy đuộc thiên nhiên.
Chúa xuân sao khéo đảo điên,
Yêu hoa mà lại để phiền cho hoa,
Trong cung cấm chim sa thiếu kẻ,
Ngoài trăm quan khanh tể biết bao.
35. Chín lần sao chẳng phó trao,
Hoà Phiên để một má đào thiệt riêng.
Say chung đỉnh quên miền đạo cả,
Ngay cùng vua thiệt có đoá yêu đào.
Tưởng rằng quyền cả ngôi cao.
40. Vuốt nanh những cũng dựa vào hoàng phi.
Giả nợ nước sá chi mình ngọc,
Phận liễu bồ kim ốc là may,
Hương trời ngào ngạt hơi bay,
Tuyết sương phút bỗng hao gầy mình ve.
45. Trông non nước bốn bề bỡ ngỡ,
Đoái nhân duyên trắc trở nhiều điều.
Có vui mà chẳng có yêu,
Trách Man vương để gái Nghiêu quá thì.
Ghét trung trực say mê sàm nịnh,
50. Lấy cá bè cả gánh như nhau,
Nghĩ mua ngọc ở Lam Kiều,
Phẩm kim đã rõ, giá châu hẵn tường.
Hay đâu lại dở ương ương dở.
Tiếng la rầm như lũ man di,
55. Man di lấy sắc làm kỳ,
Bẻ bui mà lại hưởng quì bên ngai.
Xét như thế uổng tài thục nữ,
Tiếc nghề nòi học dữ tài danh.
Than ôi quốc sắc khuynh thành,
60. Em em chị chị hôi tanh mấy loài.
Hang tạo hoá cửa ngoài toác mở,
Phấn Yên Chi vẻ nọ còn nồng,
Tơ duyên ví chửa đèo bồng,
Sẩy chân thời đã cánh hồng bay cao.
65. Cá mắc lưới biết sao xoay sở.
Mọi vào rừng bỡ ngỡ đường ra,
Hương loan nghĩ thẹn bóng nga.
Đỉnh chung vui vẻ chi mà đỉnh chung.
Trong vắng ngắt như cung Vũ Tạ,
70. Ngoài xôn xao thể chợ Tần vương.
Tẻ vui cũng cái sự thường,
Khen ai khéo vẽ đôi đường cách nhau.
Ví biết trước qua cầu lỡ hội,
Thì cũng đành rập lối Đài dương.
75. Để chi ong bướm chán chường.
Xem hoa chưa rõ đã mang tiếng đời!
Nhìn sen cúc tưởng mùi trà vị,
Dỡ thi đàn ngẫm nghĩ non sông.
Non sông xa cách mấy trùng,
80. Giang Nam tưởng vọng đau lòng nhớ thương.
Đêm giấc quế mơ màng cảnh cũ,
Ngày hồn mai ủ rủ mình nầy,
Buồn trông lên mấy sắc mây,
Núi Hằng non Thái khói bay mịt mờ.
85. Nhớ quạt nồng gương xưa ấp lạnh,
Đứng thung huyên khoẻ mạnh dường nào.
Xét câu sanh ngã cù lao,
Nhớ câu thập nữ cho vào viết vô.
Nghĩ thẹn kẻ ôm mồ đỡ sấm,
90. Với cùng người thơ thẩn khóc măng.
Trách vua muôn đoá hoà quang,
Công minh nỡ để đôi đàng cách xa.
Ân nghĩa ấy hải hà ghi tạc,
Oán hận nầy ôm vấn để bên.
95. Buồn trông phong cảnh nước Phiên.
Cỏ hoa thêm giục lòng phiền nhớ ai.
Buồn nhớ ai lược cài trâm giắc.
Chốn buồng thêu thưa nhặt mũi kim.
Chị em thơ thẩn trước hiên,
100. Vin cành bích hái hoa sen nực cười.
Trong áo tía đầy vơi giọt lệ,
Ngoài hoa thơm nhưng nhuỵ đã tàn.
Thảo nào khi trước xuất quan,
Chiêu Quân giang hạ Hạnh Nguyên đầu hà.
105. Hai nàng ấy thơm tho muôn thuở,
Danh tiếng càng rực rỡ treo gương.
Thế nhưng cũng bởi đôi đường,
Một ngay vì chúa hai thương vì chồng.
Còn ta đây tơ hồng chưa định,
110. Những rắp mong cửa kín thành cao.
Hay đâu cũng bạn má đào,
Kẻ thời sạ ấm người sao hương thừa.
Xét phận gái hạt mưa ví thể,
Việc rủi may phó để trời dành,
115. Cứ chi mai tuyết mới thanh.
Má hồng cả ngộ trời xanh rụng rời.
Chớ chẳng phải đủ mùi mới lịch.
Hay lành nghề thất tịch mới phong.
Như ai mặt lệch cổ cong,
120. Ăn câu tốt số nên chồng lắm yêu.
Nếu có phải trời chìu quốc sắc,
Thời có đâu chim mắc lưới hồng,
Để kêu chí choé trên không.
Khiến người đứng quán thu phong chạnh sầu.
125. Thương thay vợ chồng Ngâu đợi tiết,
Hết một năm mới hiệp một lần,
Còn chi nguyệt nữa mà xuân,
Không chơi mang tiếng nợ nần biết bao!
Đương nắng nỏ mưa dầm lại tạnh,
130. Tức thay trời cợt cảnh đìu hiu.
Người đời há phải cột kiều,
Mà trời đem lại búa rìu nện phang.
Đào hoa há phải đài sương,
Mà người ngắt bỏ bên đường bước qua.
135. Tủi duyên thương phận xót xa,
Trách người ở bạc trách ta rủi thời.
Ví biết trước hoa cài cửa động,
Nước dòng trần chảy thẳng làm chi!
Thà rằng hoi vú đen xì,
140. Lấy anh câu ếch tì tì chén suôn.
Sớm câu ếch tối buồng cỏ lác,
Áo tơi gianh nửa đắp nửa nằm.
Khi vui trò chuyện thì thầm,
Bố cu đĩ mẹ ì ầm cũng xong.
145. Dẫu đói no cam lòng số phận,
Chữ tự do quyết hẵn hơn người,
Ra gì chả tốt nem tươi,
Màn loan gối phụng thảnh thơi giường ngà.
Cung vắng ngắt chẳng ma nào tới,
150. Muốn ra vào phải hỏi hoạn quan.
Hoặc khi thừa hiệp long nhan,
Kẻ chầu người chực vui càng hổ thay.
Huống mình phận bèo mây trôi dạt.
Lại càng buồn thay giấc Nam Kha.
155. Nam Kha một giấc xế tà,
Ngàn vàng mua chuộc dễ mà được sao.
Xót thay nỗi công lao từ ấy,
Chực phòng loan chẳng thấy mặt rồng.
Đuốc hoa nghĩ thẹn bóng hồng,
160. Lệ rơi tủi phận cô phòng thê lương.
Đệm thuý vũ hơi sương lạnh ngắt,
Chăn hồ chiên buốt dường băng.
Phòng không ôm bức triện tàn,
Tai nghe vẳng vẳng bên màn ve kêu.
165. Ve kêu khóc phòng tiêu vắng vẻ,
Cỏ hoa thơm không kẻ viếng thăm.
Càng sầu càng nghĩ càng căm,
Trách ông tơ khéo chơi khăm má hồng.
Thà như thể mấy ông quan thị.
170. Cứ ăn no ngủ kỹ tháng ngày,
Mặc người chồng vợ mây mưa,
Lửa duyên chẳng chút mảy may bụi trần.
Thêm lại được chầu gần chín bệ,
Chẳng như ai phấn ế hoa ôi.
175. Hang sâu được bóng mặt trời,
Chờ cho chiếu đến sương đài đã đong.
Xét số phận tưởng không nên thế,
Bỗng ai làm như kẻ vị vong,
Có chồng mà cũng như không,
180. Hoa tươi mà cũng như bông rã rời.
Vui chi nữa mà ngồi chung đỉnh,
Hay chi mà quảy gánh giang san.
Vui chi mà địch mà đàn,
Mà ngâm phong nguyệt mà dan díu tình.
185. Thôi ta hãy tạm đành chích bóng,
Xem chị Hằng cửa đóng đến đâu
Nhân buồn than thở mấy câu,
Chữ duyên thử gẫm về sau thế nào.


Nguyễn Văn Sâm phiên âm theo bản Nôm do Phúc An đường (Hà Nội) khắc in năm 1921.


[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]