Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh » Truyện thơ » Nhị độ mai
Đăng bởi Vanachi vào 03/08/2007 10:42
Chàng vừa đi khỏi chợ chiều.
Thuyền ai đâu đã ghé chèo tới nơi.
Trên mui ngồi tốt một người,
Nghênh ngang dáng cậu, nói cười giọng quan.
Một thuyền vâng dạ đã rân,
1540. Tiểu hầu, đầy tớ một đoàn như rươi.
Khoe khoang một tấc đến trời,
Quần hồ sột soạt, áo mồi trai lơ.
Trông sang nhác thấy Ngọc Thư,
Xúm quang, rắn ếch, bướm hoa, động lòng.
Đặt ra một mẹo hư không,
Bạc năm mươi lạng một phong sẵn sàng.
Giao cho đầy tớ đưa sang,
Mua làm tiểu thiếp, mong đường ép duyên.
Thuận lòng bao quản sang hèn,
1550. Tam bành bà đã nổi lên một hồi.
Ngọc Thư ngấm nguýt một hai,
Trong khi quá giận, lắm lời sam sưa.
Khuyển, Ưng một lũ mắt đưa,
Để phong bạc, bắt Ngọc Thư đem về.
TIếng nàng kêu dậy giang khê,
Một đoàn thuyền hộ kéo bè la om.
Vác sào quơ gậy ỳ òm,
Lao xao nổi tép nổi tôm một vùng.
Lời thô tiếng tục như ong,
1560. Kẻ toan cướp lại, người hòng đánh nhau.
Bàn dày, bàn mỏng giờ lâu,
Xuân sinh trong chợ may đâu vừa về
Can rằng: “Xin hãy im đi,
“Khôn không qua lẽ, phép thì có quan.”
Bảo nhau tìm chốn kêu oan.
Giắt theo chứng tá, một đoàn ngư nhân.
Bước đi bóng đã xế dần,
Nửa đường gặp lũ quan quân dài dài.
Đèn lồng trước kiệu hàng hai,
1570. Hiệu đèn Đề đốcchữ nhồi nét son.
Giữa đường quì xuống kêu dồn.
Nghe truyền dừng kiệu, ôn tồn hỏi tra.
Thưa rằng: “Chút phận ngư gia,
“Gặp chàng công tử, họ là họ Giang.
“Khinh người hèn, cậy mình sang.
“Lấy điều thân thế, toan đường hiếp ai.
“Kề thuyền cướp lấy vợ người,
“Chuyện này, muôn đợi đèn trời xét cho.
“Cao minh xin thứ dân ngu,
1580. “Vội vàng kêu miệng, nào lo kịp tờ.”
Lệnh quan một tiếng truyền ra:
“Con quan quen ỷ thế cha, cũng thường.
“Tên này phong dạng ra tuồng,
“Nhìn xem chưa hẳn là phường ngư gia!”
Kịp truyền tới bến đại hà.
Bắt Giang công tửvề nha tức thì.
Nguyên đơn cũng bắt đem về,
Kiệu đi một lúc đã kề đại doanh
Hiên mônvẽ hổ trước bình,
1590. Giáo thăm thẳm dóng, quân sình sịch hơi.
Thung dung xuống kiệu sảnh ngoài,
Tiếng loa thị sự, hồi còi thu quân
Hầu bên hai dãy biền thân,
Nệm trăm trắm trải, nến rần rật giong (chong).
Ngậm tăm lặng ngắt như không,
Trại ngoài điểm trống, dinh trong đóng kèn.
Một vòng quân khảo như nêm
Hàng giăng giá nọc, chật lèn túi roi.
Giao canh trống mới sang hai,
1600. Phạm tù đã thấy lôi thôi điệu về.
Giang Khôi dường cũng khiếp uy.
Liếc trông mặt sắtlặng nghe tiếng đồng.
Quở rằng: “Cậy thế thị hùng,
“Ra ngoài văn pháp vào trong dâm tà.
“Án này cứ miệng ngư gia,
“Phỏng như tội ấy, nghĩ đà đáng chưa?”
Kiên gan Khôi cũng lôi la,
Rằng mua rằng bán, rằng lừa trăm khoanh.
Rồi ra chứng tá phân minh,
1610. Dường cưng cứng lưỡi, dường quanh quẩn lời.
Quan môn biết sự chẳng sai,
Lấy điều nhỏ nhặt truyền đòi Ngọc Thư.
Hỏi ra mới biết rằng là:
“Liễu dù gặp gió, sen chưa nhuốm bùn!”
Đòi Giang tri phủ quở dồn:
“Khen làm dân mục dung con bất tài.
“Mắt trông tay trỏ đủ mười,
“Phép vua khôn thứ, miệng người khôn che.
“Tội con phạt bốn mươi bê,
1620. “Cha đà biết tội tha về lượng cho.
“Nguyên đơn một lũ họ Châu,
“Chờ mai thẩm lại mới hồ tha xong.”
Truyền cho ở lại nha phòng,
Sáng mai sẽ hỏi xem trong tình đầu.