Thơ » Việt Nam » Khuyết danh Việt Nam » Thơ cổ-cận đại khuyết danh » Truyện thơ » Quan Âm Thị Kính
Đăng bởi Vanachi vào 23/10/2005 02:09
Dắt tay kính dẫn nàng ra,
450. Con mang bụng nặng, cha già theo sau.
Những là chê khó chê già,
Đến nay con dại dễ hầu ai mang?
Phú ông nghe nói hổ hang,
Nhủ rằng: “Sao đấy liệu đường mà đi”.
455. Thưa rằng: “Hổ phận nữ nhi,
Tam tòng vẫn giữ một ly dám rời.
Dẫu khi bãi Hán chơi bời,
Đố người cường bạo một đời dám trêu.
Điều đâu như dệt như thêu,
460. Điều đâu ai khéo đặt điều xấu xa.
Có đâu những thói dâm tà,
Bởi chung xấu máu hoá ra thế này.
Thực là vạ gió tai bay,
Bỗng dưng gắp lửa bàn tay tội đời.”
465. Làng rằng: “Nào phải nói chơi,
Đừng quen dao lá những lời vắt chanh,
Tướng kia coi đã hiện hình
Nhỡn quang như thuỷ có lành được đâu,
Chẳng hay ngày tháng bao lâu,
470. Má hồng coi đã ra màu xanh xanh.
Phải ai thì thú thực tình,
Luật cho đoàn tụ cũng thành thất gia
Không thì một chữ thân qua,
Chín trâu: Chưa dễ chuộc ra được nào.”
475. Nghe lời đe nạt mà nao,
Nghĩ mình đã trót, dễ sao bưng bồng.
Thương đầu nò đã tếch xong,
Nói ra thêm xấu, vả không có bằng.
Phép người đã cứ cung xưng,
480. Yêu ai chỉ nấy, may chưng được nhờ.
Thưa rằng: “Trước hãy còn sơ,
Cạn sông thì đá sờ sờ khôn che.
Xưa nay ở chốn thâm khuê,
Dù ong hay bướm chưa hề biết ai.
485. Phải khi lên chốn thiền trai,
Kính Tâm tiểu ấy gặp ngoài sau bia.
Quá yêu tôi đã nguyền thề,
Nhuỵ hoa phó mặc bướm kia ra vào.
Dù nên cầu bắc bến nào,
490. Nhờ làng ơn ấy đời nào dám quên.”
Rõ ràng chỉ mặt rõ tên,
Truyền đời tiểu đến nhỡn tiền đôi co.