Đèo Cả!
Đèo Cả!
núi cao ngất
mây trời Ai Lao
sầu đại dương
dặm về heo hút
Đá bia mù sương
*
Bên quán Hồng Quân
người
ngựa
mỏi
nhìn dốc
ngồi than
thương
ai
lên
đường!
*
Chầy ngày
lạc giữa núi
sau chân
lối vào
xanh tuôn.
Dưới cây bên suối độc
cheo leo chòi canh
như biên cương
tóc râu trùm
vai rộng
Không nhận ra người làng
rau khe
cơm vắt
áo phai màu chiến trường
ngày thâu
vượn hú
đêm canh gặp hùm
lang thang
*
Gian nguy
lòng không nhụt
căm thù 100 năm xa
máu thiêng sôi
dào dạt
từ nguồn thiêng
ông cha
“cần xây chiến luỹ ngất
đây hình hài niên hoa
xâm lăng! xâm lăng
súng thèm
gươm khát...”
- Ai ngân
lung
lay
đêm quê nhà
*
Lặn lội bao rừng suối
ăn với nhau
bữa heo rừng
công thui
chấm muối
và trên sạp cây rừng
tâm tình suốt tối
biệt nhau
rừng hoang canh gà
Râu ngược
chào nhau
bên vách núi
*
Giặc từ vũng Rô bắn tới
giặc từ trong đánh ra
Đèo Cả
vẫn
giữ
vững
Chân Đèo Nam
máu giặc
mấy
lần
nắng
khô
*
Suối
mang
bóng
người
Soi
những
về
đâu?
Trang trong tổng số 1 trang (3 bài trả lời)
[1]
Gửi bởi Vanachi ngày 11/03/2022 09:58
Giở những trang thơ thời kỳ đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, có một “tam tuyệt thi” cứ lừng lững trong tâm trí bạn đọc: Nhớ máu của Trần Mai Ninh, Hải Phòng 19/11/1946 của Trần Huyền Trân, Đèo Cả của Hữu Loan. Ba bài thơ được sáng tác cùng một năm (1946), cùng tập trung khắc chạm hình tượng đất nước, con người Việt Nam trong cuộc binh lửa gian khổ, thiếu thốn, hy sinh nhưng lãng mạn, hào hoa, anh dũng qua một lối thơ tự do đến bung toả, bạo liệt...
Hữu Loan (tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan) sinh năm 1916 tại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá trong một gia đình nông dân rất nghèo và đông con. Thấy con sáng dạ, học đâu nhớ đó nên cha mẹ ông không quản vất vả để ông được ăn học. Năm 1937, Hữu Loan lên thị xã Thanh Hoá học trường Collège (Trung học) và được giới thiệu làm gia sư cho nhà ông Lê Đỗ Kỳ, Tổng Thanh tra Nông lâm Đông Dương, sau này là Đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và sau này cũng là bố vợ Hữu Loan. Năm 1941, sau khi thi đỗ Tú tài Tây ở Hà Nội, Hữu Loan về lại Thanh Hoá vừa dạy học vừa tham gia Việt Minh. Cách mạng mùa thu bùng nổ, Hữu Loan làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn và ít lâu sau được điều lên làm Uỷ viên Văn hoá trong Uỷ ban lâm thời tỉnh Thanh Hoá, phụ trách bốn Ty Giáo dục - Thông tin - Thương chính - Công chính. Năm 1946, theo yêu cầu ở trên, ông gia nhập quân đội, được cử làm chủ bút báo Chiến sĩ Quân khu IV, Trưởng ban tuyên huấn Sư đoàn 304 ở Huế.
Đèo Cả (địa giới tự nhiên của hai tỉnh Khánh Hoà và Phú Yên) bấy giờ là phòng tuyến của quân ta. Quân Pháp và Nhật tuy bị ta cầm chân ở Mặt trận Nha Trang nhưng lực lượng vẫn rất mạnh, nôn nóng muốn chọc thủng căn cứ đèo Cả, đánh ra Tuy Hoà để bắt liên lạc với các đội quân viễn chinh phía Bắc. Cũng thời gian này, rất nhiều chiến sĩ trên các chuyến tàu Nam tiến chi viện cho Nam Bộ kháng chiến đã dừng lại “trấn ngự” trên con đèo lịch sử này. Nhà thơ Hữu Loan khao khát vào đèo Cả thâm nhập thực tế. Một người bạn là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 79 cấp cho ông một con ngựa. Ngựa thuần người khác đã dùng hết, chỉ còn con ngựa đực bất kham. Vốn có “máu tráng sĩ”, Hữu Loan nhận cưỡi. Vừa ra khỏi thị xã Tuy Hoà, gặp ngựa cái, chú ngựa bắt đầu sinh sự. Hữu Loan vẫn ghìm cương thúc ngựa đi được nhưng bị nó trả thù, cứ nhè những gốc cây cà người cưỡi vào. Có lần bị nó tông mạnh vào cành cây, áo móc vào cành, treo người ngang vách đá, “tráng sĩ” phải đu cành mới thoát được.
Đèo Cả - bài thơ đầu tay của Hữu Loan - ra đời từ chuyến đi đó, đăng trên báo Chiến sĩ với bút danh là “Hữu”. Từ chiến trường, báo Chiến sĩ về đến Việt Bắc. Dọc đường mưa ướt nát hết đoạn cuối nhưng phần đầu bài thơ của tác giả Hữu đã chiếm hết tâm hồn nhà thơ Xuân Diệu đến mức trước ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Xuân Diệu phải hối hả “đến đèo Cả để gặp bài thơ Đèo Cả”. Hữu Loan gửi bài thơ về tặng cô học trò nhỏ Lê Đỗ Thị Ninh, làm trái tim cô học trò nhỏ từ lâu đã run rẩy vì “thầy Loan” tài hoa nay càng thêm thổn thức. Để rồi mùa xuân năm 1948, “Nàng cười xinh xinh / Bên anh chồng độc đáo / Tôi ở đơn vị về / Cưới nhau xong là đi” (Màu tím hoa sim)...
Dãy Trường Sơn chạy dọc sống lưng đất nước, thỉnh thoảng lại vươn về phía biển tạo nên những dãy đèo trập trùng. Đèo Cả - con đèo kéo từ chân núi Đá Bia đến Đại Lãnh dài khoảng mười hai cây số - là lần dan díu cuối cùng của mạch núi hùng vĩ với biển cả bao la. Những vách núi sừng sững nhô ra biển tạo nên cái thế đứng kỳ vĩ:
Đèo Cả!Theo Đại Nam nhất thống chí, thế kỷ XV, vua Lê Thánh Tông từng hành quân qua đây, sai quân mài vách núi dựng bia đá phân định ranh giới Việt - Chiêm nên đặt tên núi là Thạch Bi (Đá Bia). Trên đường thiên lý Bắc Nam xưa, người xưa phong núi Đá Bia là “Nam thiên đệ nhất trụ” (cây trụ kỳ vĩ nhất trời Nam). Đứng ở đây tưởng có thể nhìn thấy mây trôi về tự biên giới Ai Lao. Núi, nước, biển, trời, mây, sương... tụ lại trong cái nhìn không gian - thời gian đa chiều của người tiếp giữ hồn thiêng núi sông, hào khí dân tộc.
Đèo Cả!
Núi cao ngút!
Mây trời Ai Lao
Sầu đại dương
Dặm về heo hút
Đá Bia mù sương
Dưới câyRất nhiều người nhận xét thơ Hữu Loan “bi hùng như hơi thơ Đỗ Phủ”. Không khí Đường thi ẩn hiện trong những nét bút cổ kính (bóng núi cao ngất, mây trời ngưng đọng, bóng ngựa gầy trên đường mòn heo hút, chòi canh biên tái mù sương...). Song, Đèo Cả vẫn đậm tinh thần hiện đại cùng phong vị sử thi. Chiến sĩ đèo Cả tuy sống cực kỳ thiếu thốn, gian khổ vẫn bền gan, nung nấu chí căm thù, khắc sâu truyền thống cha ông, trọn vẹn nghĩa tình đồng đội, đồng chí - những tình cảm mới của một thời dân nước:
bên suối độc
Cheo leo chòi canh
như biên cương
Tóc râu
trùm vai rộng
Không nhận ra
người làng
Ngày thâu
vượn hú
Đêm canh
gặp hùm lang thang...
Gian nguyMàn đêm, bóng tối không chỉ có ở đoạn này, nó trở đi trở lại dọc bài thơ năm lần. Những cuộc đụng độ khốc liệt, “Giặc từ Vũng Rô bắn tới / Giặc từ trong tràn ra”, một đường hầm dài mười bốn ki lô mét là nơi trú ngụ chính của Vệ quốc quân và dân quân, Hữu Loan thử chui qua một cái tuy nen dài khoảng năm ki lô mét, khi ra đến ngoài trời, bị ánh nắng làm cho quáng mắt đến bật ngửa ra. Ấn tượng dữ dội đó đã giúp ông khắc chạm xuất thần không - thời gian bóng tối như một ám ảnh nghệ thuật làm sáng bừng lên khí phách trượng phu, bản lĩnh can trường, tinh thần lạc quan của những người đi kháng chiến:
lòng không nhạt
Căm thù
trăm năm xa
Máu thiêng
sôi dào dạt
Từ nguồn thiêng
ông cha
(…)
Nhớ lần thăm Đèo Cả
hậu phương từ rất xa
Ăn với nhau bữa heo rừng
công thui chấm muối
Trên sạp cây rừng
ngủ chung
nửa tối
Biệt nhau
đèo heo
canh gà
Nhưng Đèo CảMột câu thơ với lượng thơ không nhiều (chín tiếng) nhưng có đến sáu bước thơ. Đây có lẽ là câu thơ “phiêu” nhất, hào sảng nhất của Đèo Cả, đúng như nhà thơ Trịnh Thanh Sơn nhận xét: “Sảng khoái nhất, ran rỉ, sướng nhất, có lẽ là đoạn này. Tất cả những gập ghềnh, gian nan phút trước, để dồn cho khí thế người chiến thắng ở đoạn này. Thơ dồn nén sự hoan hỉ tự nhiên của những con người sống chết với non sông đất nước”.
vẫn đứng vững
Đèo Cả Nam
máu giặc
mấy
lần
nắng
khô
Sau mỗi lần thắngNhững nét phác hoạ thô tháp nhưng sống động đã khơi lên tư duy thơ kháng chiến - thơ gắn với hiện thực cuộc đời - khác với Thơ Mới lãng mạn trước đó không lâu. Tài của Hữu Loan ở chỗ ông biết nắm bắt những khoảnh khắc rất thực, rất đời nhưng cũng rất đắt làm cho người đọc không thể không ngạc nhiên, sững sờ. Cái cảnh tượng và không khí người lính sau những giờ phút chiến đấu căng thẳng, về bên suối đánh cờ, hái cam rừng ăn nheo mắt, mài kim vá áo, đập mảnh chai cạo râu đi vào thơ thật mới lạ và cảm động.
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối đánh cờ
Người hái cam rừng
ăn nheo mắt
Người vá áo
thiếu kim
mài sắt
Người đập mảnh chai
vểnh cằm
cạo râu
Suối mang bóng ngườiĐèo Cả mang âm hưởng gân guốc và bề thế với lối thơ tự do - bậc thang, thể thơ dễ tái hiện ngoại cảnh đầy kịch tính và bộc lộ được nội tâm chứa chan xúc động; giọng điệu trầm hùng nhưng phóng khoáng; thi ảnh hiện đại mà cổ kính, vừa góc cạnh vừa mờ ảo, giàu sức khơi gợi; tiết nhịp vững chãi, chắc khoẻ; ngôn từ mộc mạc, tự nhiên và đầy sáng tạo... Ngay từ bài thơ đầu tay, Hữu Loan đã bộc lộ hồn thơ độc đáo, “một tâm hồn ứ mọng cảm xúc và vọt ra thành câu chữ một cách tự nhiên, mạnh mẽ, qua thơ ta thấy được con người tác giả: thẳng thắn và ngang tàng” (Võ Văn Trực).
soi
những
về
đâu?
Gửi bởi Trung Nhân ngày 27/09/2015 08:59
Có phải là do lỗi font chữ hay do tác phẩm đã như thế mà nhìn mấy dòng thơ lạ quá.
Gửi bởi Yến Nhi ngày 30/07/2021 09:51
bài Đèo cả của Hữu Loan viết theo hình thức thơ bậc thang nên tác giả mới trình bày thơ như vậy nha
Sau mỗi lần thắng
Những người trấn Đèo Cả
Về bên suối đánh cờ
Người hái cam rừng
ăn nheo mắt
Người vá áo
thiếu kim
mài sắt
Người đập mảnh chai
vểnh cằm
cạo râu