Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Bính » Lỡ bước sang ngang (1940) » Tương tư
Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Bính » Nước giếng thơi (1957) » Tương tư
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,Trong cuộc sống hàng ngày, tương tư là chỉ nỗi nhớ nhung đơn phương, thầm kín của người con người với đối tượng mà mình có cảm tình hoặc yêu thích. Vậy mới nói, tình yêu nào cũng bắt đầu bằng nỗi nhớ, và tình yêu trong Tương tư cũng vậy. Cũng là nhớ, nhưng là “chín nhớ mười mong”, là nhớ thương khắc khoải. Cái nỗi nhớ da diết tưởng chừng như không đong đếm được được nhà thơ gói gọn trong bốn chữ “chín nhớ mười mong” nhưng lại càng khiến cho nỗi nhớ như trải rộng thêm ra, đầy thêm lên.
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giờiĐến đây, nỗi nhớ đã được chỉ đích danh. Đó là nỗi nhớ của tình yêu, nỗi nhớ của một người con trai dành cho một người con gái. Người con trai đang yêu này là con người có gốc rễ sâu xa với làng mạc quê hương. Vì thế, đến cả cái chất yêu, cái chất nhớ cũng đượm tình quê, hồn quê bình dị mà chân thật. Thơ của thi sĩ lãng mạn mà như của dân dã, nỗi nhớ mộc mạc mà lại đằm thắm, tâm tư. Nguyễn Bính thích lối cụ thể hoá cái trừu tượng của ca dao, cụ thể ra thành chữ số (yêu nhau tam tứ núi cũng trèo), nhưng lại có cấu trúc điêu luyện của thơ:
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Một người chín nhớ mười mong một người“Một người” đứng ở hai đầu câu thơ, tạo ra một khoảng cách, diễn tả sự xa cách, nhớ mong như vậy quả là hay, quả là độc đáo! Tâm trạng của người tình đơn phương cũng được mở ra với trời đất. Rằng trời cao kia cứ nắng cứ mưa, còn “tôi” đây dù nắng dù mưa vẫn một nỗi lòng yêu thương, nhớ nhung “nàng”.
Hai thôn chung lại một làngĐọc câu thơ, ta thấy tội nghiệp cho người trách hơn là người bị trách. Rõ ràng là nàng “Thôn Đông” đâu có hay biết rằng mình đã lọt vào mắt xanh của chàng “Thôn Đoài”. Nhưng thấy người ở Thôn Đoài mười mong chín nhớ đến độ tự hờn giận vu vơ lại thấy thật tội nghiệp, đáng thương. Đáng thương nhất không phải tình cảm không được đáp lại mà là ngay cả mình thích người ta cũng không để người ta biết, không dám để người ta biết, chỉ biết lặng lẽ nhớ mong rồi chờ đợi vào hai chữ “vô tình”.
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này
Ngày qua ngày lại qua ngàyCách sử dụng láy chữ “ngày qua ngày lại...” như là âm hưởng của luyến láy trong âm nhạc dân gian, như dân ca, như hát chèo. Cách phô diễn của Nguyễn Bính cũng uyển chuyển. Cùng là sự vận động của thời gian mà câu trên là nhạc, và câu dưới là màu. Nhạc là của ngày, màu là của mùa. Nhưng không thể viết “mùa qua mùa lại...” mà phải viết “Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng” thì ấn tượng tương tư mới đậm, tương tư đến vàng vọt cả “lá xanh” hay là héo úa cả tuổi xanh?
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò giangHết trách móc lại chuyển sang kể lể, than thầm. Kể lể như vậy là để bộc lộ lòng yêu tha thiết của người tình, nhưng khốn nỗi có “ai” biết cho nỗi lòng tương tư trắng đêm ấy. Những từ “ai” phiếm chỉ được điệp lại gây âm hưởng trùng điệp nghe mà não lòng. Những từ “ai” gợi nhớ những từ “ai” trong ca dao:
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai.Than thầm, trách móc vì yêu, vì nhớ, vì tương tư. Tình cảm đơn phương vốn xưa nay chẳng mấy ai vui. Có lẽ nhớ thương não nề vì mong ước vô vọng, sự chờ đợi khiến trái tim tình si thêm khao khát, lại nhuốm thê lương:
Bao giờ bến mới gặp đò,Cùng một lúc nhà thơ dùng hai biểu tượng bến và đò, hoa và bướm thường thấy trong ca dao. Cũng như trong ca dao, biểu tượng tĩnh như bến, hoa ám chỉ người con gái, biểu tượng động như đò, bướm ám chỉ cho người con trai. Vận dụng biểu tượng chung, Nguyễn Bính đã khéo léo biểu đạt cảnh ngộ riêng của đôi bạn tình. Sao lại “Bao giờ bến mới gặp đò”? Thế là mong ước của chàng trai vô vọng rồi. Đò dịch thì thuận chứ sao lại đòi bến dịch? Cho nên cứ trách “cớ sao bên ấy chẳng sang”, rồi “không sang là chẳng đường sang đã đành”, rồi “tình xa xôi”. Lại nữa “hoa khuê các” làm sao gặp “bướm giang hồ”? Rõ ràng là Nguyễn Bính đã thổi vào hoa – bướm của dân dã một chút tình lãng mạn của thời đại. Thành ra cuộc tình của đôi lứa vừa có cái bí ẩn như những cuộc tình trong ca dao lại thêm chút “khó hiểu của thời đại” như Hoài Thanh từng nói. Thực chất, sâu trong thâm tâm, dẫu trái tim tình si có yêu thương, nhớ nhung mãnh liệt nhưng vẫn cảm nhận được sự vô vọng, mộng tưởng xa xôi. Thế mới là tương tư, thế mới chỉ biết tương tư, thầm sầu, thầm trách trong đơn phương vô vọng.
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà em có một giàn giầuCâu thơ “Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông” được nhắc lại, có thêm cặp biểu tượng của tình yêu là trầu – cau. Dẫu trầu cau là biểu tượng kết đôi, lứa đôi hạnh phúc nhưng dẫu có trầu, có trầu, có cau thì cũng chỉ là nhớ đơn phương thôi, người nhớ người, cau nhớ trầu, chứ không làm sao “đỏ với nhau được” như ca dao:
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Miếng trầu với lại quả cauẤy thế mới lại càng khắc khoải không yên, càng tương tư day dứt. Tương tư là nỗi nhớ mong, mà nhớ mong thầm kín, đơn phương thì há chẳng phải là thất tình? Bởi thất tình mới cứ mãi vấn vướng không dứt, cứ buồn man mác mà chẳng biết ngỏ cùng ai, chỉ biết thốt lên dăm bảy câu thơ tỏ lòng cùng nỗi nhớ, có trách móc, hờn giân đấy, mà là “giận thì giận mà thương càng thương”.
Làm sao cho đỏ với nhau thì làm