Thơ » Việt Nam » Hậu Lê, Mạc, Trịnh-Nguyễn » Đoàn Thị Điểm » Nữ trung tùng phận
Đăng bởi demmuadong vào 06/09/2006 07:19, đã sửa 2 lần, lần cuối bởi demmuadong vào 06/09/2006 07:53
13.
Nấu kinh sử ra mùi son phấn,
Cầm bút nghiên đặng thắm má đào.
Quần xoa đỡ ngọn binh đao,
Xây hình thục nữ giặm màu nước non.
17.
Cửa Thánh miếu hỡi còn thiếu gái,
Chốn quyền môn nữ lại vẫn không.
Vật chơi ở chốn khuê phòng,
Đã cam phận vợ để chồng cầm duyên.
21.
Phần nội trợ trăm phiền đeo đẳng,
Đạo phụ cơ đã nặng cho mình.
Duyên may chồng đã nghĩ tình,
Còn cha còn mẹ có đành phận đâu?
25.
Nỗi em chị bởi đâu chẳng thuận,
Nỗi nhi tôn lẩn bẩn bên lưng.
Nỗi nhà, nỗi bếp, nỗi lân,
Nỗi trong thân tộc, nỗi gần, nỗi xa.
29.
Trên lo thảo, giữa hoà, dưới thuận,
Ngoài nên danh, trong vững mối giềng.
Nỗi trông hương hoả giữ bền,
Giúp nên chồng có phẩm quyền cao sang.
33.
Mảng lo lắng chữ nhàn nào rõ,
Huống để công đến ngõ Khổng Trình.
Rừng Nho biển Thánh thinh thinh,
Nữ lưu nào thấu muôn nghìn thi thơ.
37.
Kỉnh tổ hiển nỗi thờ nỗi phụng,
Tế tông đường lo cúng lo đơm.
Kiến thân viếng sớm thăm hôm,
Chua cay rõ miếng cơm ngon cá bùi.
41.
Lưỡi lừa miếng nhai cơm lũ trẻ,
Kiêng vật ăn đặng để nuôi con.
Còn con nòi giống chồng còn,
Mảnh thân đành chịu hao mòn với ai?
45.
Còn gặp thuở xanh mày lịch sắc,
Dâng hình hoa treo mắt bướm ong.
Nào là hương đượm lửa nồng,
Nết khuôn giữ vẹn chữ đồng lương nhân.
49.
Muốn trau chuốt mặt ngần thân dịu,
Vẽ cho hay mày liễu má đào.
Thương gìn lúc ốm khi đau,
Sợ chê xấu phận, cậy màu phấn son.
53.
Mình mỏng mảnh sức non nớt yếu,
Đỡ nâng chồng vốn thiếu tay co.
Không toan sớm đói chiều no,
Lựa là tứ hải ngũ hồ giúp nhau.
57.
Cứ tựa cửa phòng đào giấu dạng,
Ngoài nước non nào hẳn vơi chênh.
Mảng trong thấm nghĩa nặng tình,
Để công bẻ liễu, bắn bình trượng phu.
61.
Dầu khôn mấy giả ngu cho thuận,
Phải bao nhiêu cũng nhận lỗi lầm.
Phòng đào giữ rủi rơi trâm,
Sợ lơi hơi sắt, tiếng cầm lạc cung.
65.
Thử từ nết khi chung lúc chạ,
Gióng từ hơi hoà nhã tơ loan.
Chiều vui dưới trướng ngoài màn,
Nhẫng lo ngại nỗi phụ phàng ái ân.
69.
Nghe từ lịnh, cúi vâng từ mạng,
Nhọc lòng chi nào dám dỉ hơi.
Sợ cơn giông gió tơi bời,
Trà mi sơ sẩy hoa rời rã bông.
73.
Che đậy kín tường đông ong bướm,
Giấu nhặt nghiêm nhuỵ tướng hương hình.
E khi vách có âm thinh,
Để gương lỗi đạo, lỗi tình phu thê.
77.
Giao thân cứ gần kề kẻ thiết,
Ép nhớ thương làm điếc làm đui.
Mặc người cha mẹ dễ duôi,
Ngoại tông nương phận nếm mùi trân cam.
81.
Hiểu thương ghét giả cam phận dại,
Biết nên hư chẳng cãi cho cùng.
Nên thì an phận kiếm cung,
Hư thì khổ vợ tội chồng chung nhau.
85.
Ngoài mặt phép, chàng sao thiếp vậy,
Giữa cửa công, phải quấy đồng thân.
Vinh thì chàng mão thiếp cân,
Hèn thì chàng váy thiếp quần đổi thay.
89.
Lấy khổ cực làm bài thuốc mến,
Dụng đau thương rù quến thâm tình.
Dầu chàng đổi dạ én anh,
Tề mi vẹn đạo, giữ gìn phép khuôn.
93.
Nâng khăn trấp giải buồn quân tử,
Hầu tửu trà giấc ngủ không an.
Chàng vui thiếp cũng vui càn,
Chàng buồn thiếp tựa bên màn khóc theo.
97.
Dòng Tương chảy thân bèo trôi nổi,
Chẳng ai thương chữa lỗi binh lời.
Chàng thì biển cả vơi vơi,
Thiếp như bóng bọt giữa vời linh đinh.
101.
Nếu gặp phước bố kinh đáng khách,
Biết yêu hoa dưới ngạch phòng thu.
Rủi duyên gặp phải thường phu,
Nhành xuân thì trọng, gương thu dở cầm.
105.
Khi lịch sắc trao trâm đáng giá,
Cơn tàn hoa, keo rã sơn rời.
Vẻ hồng mắc mỏ bao mươi,
Đưa cho quân tử trọn đời chủ trương.
109.
Nhuỵ đương nở mùi thơm ngào ngạt,
Dâng hình hoa lo lót con ong.
Trăm năm kim cải cũng chồng,
Trái duyên cũng vẹn đạo tòng mà thôi.
113.
Thân lòn cúi, vợ tôi chồng chúa,
Đạo phu thê như đũa nên đôi.
Dầu cho lúc đứng khi ngồi,
Chàng là chúa cả, thiếp thời gia nô.
117.
May quan cả, rủi cho lê thứ,
Trong tộc gia cũng cứ phép nhà.
Hèn người sang ấy của ta,
Chê người ta lại cho là đáng khen.
121.
Chồng sang đặng, ta hèn chẳng quản,
Chồng đẹp hình, ta mảng lo âu.
E ra nhiều thiếp nhiều hầu,
Rồi tham bẻ lựu, bỏ đào bơ vơ.
125.
Hễ xấu dạng thì nhơ mặt thiếp,
Còn đẹp hình, nhát kiếp phù dung.
Mình thương người cũng thương cùng,
Còn như chê bỏ, lại dùng vào đâu?
129.
Kiếm xứng mặt mày râu dưới thế,
E không mưu đủ kế gìn duyên.
Còn theo thăm ván bán thuyền,
Trông chi giữ mảnh hương nguyền cùng nhau.
133.
Lỡ lối cũ động đào lạc bước,
Khó cầm duyên đợi ngọc cầu Lam,
Thân Tiên dầu lỡ gót phàm,
Gương xưa lỗi ráp, ai cầm làm chi?
137.
Nhẹ là bức, nặng chì tình nghĩa,
Để dùng riêng cho phía nữ lưu.
Thung dung quân tử hảo cừu,
Năm thê bảy thiếp mặc dầu trăng hoa.
141.
Nào có tưởng vợ nhà đau đớn,
Ôm tình si muôn lượng sầu than.
Máu ghen chăn gối dẫy tràn,
Hình mai ủ dột sắc càng héo don.
145.
Hễ càng ngắm hao mòn đoá ngọc,
Càng riêng lo tơ tóc không bền.
Chàng vui cung nguyệt trao duyên,
Thiếp sầu sợ nén hương nguyền bớt thơm.
149.
Lo ngại rồi ra cơn mất nết,
Vì ghen tương hết biết thân mình.
Dám toan tử tiết với tình,
Còn chi kể đến gia đình hư nên.
153.
Nếu ôm ấp một bên thương nhớ,
Bịnh tương tư khó gỡ cho kham.
Nên toan đập nát cung cầm,
Vô duyên đành phận, sống làm chi đây?
157.
Thương ra giận khó khuây nỗi nhớ,
Mối tơ duyên ai gỡ cho đang?
Hỡi người cỡi phụng ngừa loan,
Phải chi vợ dám phụ phàng mới sao?
161.
Tả nỗi thảm thêm đau mấy đoạn,
Mượn bút hoa đắp cạn thành sầu.
Tiếng tiêu dầu lọt phụng lầu,
Hoặc may gỡ đặng dây sầu nữ nhi.
165.
Cầm bút ngọc đề thi tự thuật,
Một kiếp sanh của bậc văn tài.
Nêu gương tuyết giá hậu lai,
Gỡ trong muôn một những bài sanh ly.
169.
Khi đầu ấp cùng khi tay gối,
Thân thiết nhau sớm tối quen hơi.
Chừ sao chong ngọn đèn ngồi,
Cô đăng giỡn bóng, ghẹo người thương tâm.
173.
Nào là thuở âm thầm dan díu,
Vịn bóng trăng đặng níu hoa đào.
Chừ sao bỏ cảnh úa xào,
Nhuỵ phai hương lợt, khuôn rào tả tơi.
177.
Nào khi đứng lúc ngồi đủ mặt,
Qua tường đông lóng bậc tơ đồng.
Chừ sao chăn chiếu lạnh lùng.
Phím loan nín bặt, tranh tòng đứt dây.
181.
Nào khi lén vẽ mày thục nữ,
Nào khi lo gìn giữ hương thề.
Chừ sao bướm cũ lìa huê,
Vườn thu vắng khách, ủ ê canh tàn.
185.
Nào khi tựa bên màn canh lụn,
Nào khi ngồi ngó bóng Hằng Nga.
Chừ sao để lụn canh gà,
Vắng hoe gối phụng, nguyệt tà hoa thưa.
189.
Nào khi đổ mây mưa đảnh giáp,
Nào khi lo ấm áp cung thiềm.
Chừ sao vắng dạng tàn đêm,
Gia cư rách cửa, ven thềm cỏ chen.
193.
Nào khi ước giữ niềm son sắt,
Nào thề non nắm chặt dải đồng.
Chừ sao đổi dạ thay lòng,
Hẹn xưa bỏ chảy theo dòng Tương giang.
197.
Nào khi đứng giữa đàng trông ngọc,
Nào khi ngồi dưới bộc trong dâu.
Chừ sao phụ nghĩa sơ giao,
Phòng toan ném gánh tâm đầu sông Ngân.
201.
Nào khi đến cầu Lam chưởng ngọc,
Nào khi lo giã thuốc trường sanh.
Chừ sao bỏ nghĩa én anh,
Tham lê bỏ lựu, phụ tình trước mai.
205.
Nào khi cửa then gài mấy lớp,
Cấm vườn xuân nườm nượp én anh.
Chừ hoang cây cỏ xủ mành,
Gần cây chim lánh, đến cành gió day.
209.
Nào khi sắc so tài đẹp dạ,
Nào khi nhen hương hoả ba sinh.
Chừ toan bứt mảnh tơ tình,
Trà ngâu chê nhớ, rượu quỳnh chối thương.
213.
Nào khi hỏi thăm hang Từ Thức,
Nào khi dò mấy bực cầu ô.
Chừ sao kẻ Hớn người Hồ,
Để cho phòng hạnh ra mồ quạt duyên.
217.
Nào là lúc ngửa nghiêng đêm quạnh,
Nào là khi thức tỉnh đêm khuya.
Chừ sao loan phụng chia lìa,
Con trông vợ nhớ, mắt kề ngó song.
221.
Càng thấy con khờ không đủ trí,
Càng thêm lo huyết khí bên chồng.
Nâng niu lúc ẵm khi bồng,
Phụ thân thế phận cho chồng dạy khuyên.
225.
Càng sợ hở thung huyên phiền muộn,
Thảm bao nhiêu gắng gượng làm vui.
Tảo tần sớm dưỡng chiều nuôi,
Thế chàng thiếp lãnh vai người hiếu nam.
229.
Thấy em dại không ham đèn sách,
Càng để lòng hỏi hạch kinh luân.
Thay chàng thiếp trả nghĩa thâm,
Dạy em văn hoá, thiếp làm trưởng huynh.
233.
Càng nghĩ đến linh đinh phận thiếp,
Càng ngại lo tội nghiệp thân con.
Những ngờ nước thấm đầu non,
Nào hay trăng khuyết hao mòn nhơn duyên.
237.
Càng đeo đẳng nỗi phiền nỗi thảm,
Càng thương thân chích bạn lìa đôi.
Phận sao phận bạc như vôi,
Nước lưng đáy gáo, hương trôi dòng là.
241.
Càng ngắm đến cỏ hoa vật loại,
Càng thẹn vì vắn vỏi tơ tình.
Chim kết cánh, cây liền cành,
Còn thân thiếp chịu một mình đơn cô.
245.
Kìa cá giỡn vẩn vơ đáy nước,
Nọ kết đôi cưu thước ven trời.
Còn thân thiếp chịu cút côi,
Đèn khuya nhắc thảm, gió mơi ghẹo sầu.
249.
Kìa oan ương ấp nhau chẳng hở,
Nọ én anh rỉ rả kêu thương.
Còn ta luống những đoạn trường,
Gối chăn tê tái, chiếu giường lạnh tanh.
253.
Kìa cầm điểu bẻ cành kết ổ,
Nọ thú trùng moi lỗ làm hang.
Nầy thân thiếp chịu gian nan,
Linh đinh đất chiếu, trời màn không nơi.
257.
Kìa ong kiến tha mồi dành để,
Cơn khốn cùng có thể nuôi thân.
Còn thân thiếp chịu khốn nàn,
Tả tơi nỗi mẹ, truồng trần nỗi con.
261.
Thôi đành kiếp nớt non gượng sống,
Sống vì con, chẳng sống vì thân.
Đòi phen đổi thảm ra mầng,
Nâng niu trẻ dại cho gần đặng cha.
265.
Đưa giọt sữa ra hoà giọt luỵ,
Trong tình chung huyết khí đúc hình.
Còn con may đặng giữ tình,
Khối chung tình ở nơi mình ấu nhi.
269.
Nghe trẻ khóc như chì dần dạ,
Thấy con đau như đá đập đầu.
Còn con ô thước bắc cầu,
Mất con là cửa vô lầu lãnh cung.
273.
Thấy xuân đến vẻ hồng khắp chốn,
Nương con thơ sống rốn cùng xuân.
Ru con giọng hát ngập ngừng,
Xuân ôi! Xuân biết mấy lần đau thương?
277.
Ve kêu hạ như dường trêu thảm,
Mưa sầu tuôn mấy dặm biệt ly.
Dỗ con lệ ngọc li bì,
Hạ ôi! Hạ có biết nghì phu thê?
281.
Chiều thu nhắc ủ ê cảnh hạn,
Nhấp nhô xem cánh nhạn về non.
Trông thu rầu nhớ thân con,
Thu ôi! Thu biết hao mòn tấm duyên?
285.
Đông lạnh ngắt mảnh mền úm trẻ,
Ngồi đêm trường quạnh quẽ phòng không.
Nhớ chồng thấy trẻ não nồng,
Đông ôi! Đông biết tấm lòng kiên trinh?
289.
Vắng mặt chồng, cân hình của trẻ,
Ngó thấy con đặng vẽ tượng chồng.
Cân thương trẻ ấy mà đong,
Thì trong thương ấy, của chồng tám phân.
293.
Kìa máu huyết, cành xuân nhuỵ nở,
Khối ái ân đành ở nơi con.
Dầu cho biển cạn non mòn,
Tơ duyên khắn khít chỉ còn bấy nhiêu.
297.
Trẻ nhỏ dại lắm điều học hỏi,
Thường kiếm cha mong mỏi thấy nhau.
Dỗ con chỉ bóng giải sầu,
Rằng khuya đèn thắp cha hầu về thăm.
301.
Hơi mảnh áo còn cầm đặng ngữi,
Gối loan gìn từ buổi kết duyên.
Ba sanh dầu toại thửa nguyền,
Hoạ trong giấc mộng giải phiền giao hoan.
305.
Càng bạc phước càng than con dại,
Lo tảo tần mảy mạy dưởng nuôi.
Còn cha con tỷ như côi,
Chít chiu trẻ khó, bồi hồi mẹ đơn.
309.
Nhịn ăn mặc ngừa cơn thiếu thốn,
Làm lụng nhiều nuôi dưỡng sắp con.
Nại chi xác yếu thịt mòn,
Gia tư miễn đặng vuông tròn giữ duyên.
313.
Lớn một tuổi, mẹ thêm một khổ,
Hiểu một điều, mẹ hổ cho thân.
Trí con lần mở nẻo gần,
Hỏi cha sao phụ, tố trần làm răng?
317.
Chẳng lẽ nói cho chàng đen bạc,
Chẳng lẽ cho cỡi hạc quên nhà.
Không đành nói thác ra ma.
Không đành nói ngụ nơi nhà lầu xanh.
321.
Không lẽ nói mến anh quên én,
Không lẽ rằng trộm nén hương thừa.
Nói chi tìm vợ dâng dưa,
Lẽ nào nói rượt theo vừa Hằng Nga.
325.
Không lẽ nói đi qua Đông Độ,
Không lẽ rằng vô số chinh phu.
Lẽ nào nói bị tội tù,
Lẽ nào nói trấn Tây Âu làm hoàng.
329.
Còn nói thiệt rằng chàng phụ thiếp,
Cũng vì mê theo kiếp làng chơi.
E con đến lớn nên người,
Gương cha để thẹn những lời bợm hoang.
333.
Riêng chịu thảm không than với trẻ,
Đổ luỵ rơi theo khoé miệng cười.
Vui là gắng gượng làm vui,
Cái vui cùng trẻ là hồi ai bi.
337.
Ngàn dâu ngó ngày chầy thăm thẳm,
Bận lòng con lại vấn nô y.
Xem chừng coi mảnh anh nhi,
Co tay đếm tuổi bấy chầy không cha.
341.
Hột cơm tẻ nhai ra như cát,
Gan còn nguyên như nát bao chừ.
Nuôi con từ lúc đào thư,
Bao nhiêu máu thịt công chờ bấy nhiêu.
345.
Chàng đâu rõ khúc khiu cực nhọc,
Lớn khôn ngoan biết học biết hành.
Biết ơn nuôi dưỡng sanh thành,
Tìm cha lại bỏ một mình thiếp côi.
349.
Càng thấy lớn, mầng rồi lại sợ,
Mầng nên hình, còn sợ theo cha.
Dường như con vịt mẹ gà,
Trẻ thơ vội phản, mụ già kinh tâm.
353.
Làm lụng té bao lăm của cải,
Để cho con làm ngãi cùng con.
Nỗi lo đôi lứa vuông tròn,
Còn lo gia thất vĩnh tồn hậu lai.