Hà Nội trong những ngày đầu tháng năm, thời tiết thật khác lạ. Đã qua tháng tư ta rồi mà vẫn còn một vài cơn gió lạnh bất thường. Gió và cát bụi như thốc vào mặt, thật nguy hiểm vì không thể nhìn rõ đường đi. Con đường nhỏ ngoằn ngoèo đầy ổ gà dẫn vào làng Mơ Táo, phường Mai Động, nơi có gia đình bác Ngọc Chương - một người bạn của cha tôi - nhà thơ Quang Dũng - lúc sinh thời, là bạn học từ nhỏ và là người “đi hỏi vợ” cho cha tôi. Sau này cũng nhờ có bác Chương lưu giữ mà còn lại được một số bài thơ tình (đã giới thiệu trong tuyển tập in lần đầu của cha tôi). Tôi đến nhà bác Chương với mong muốn sẽ tìm thêm được chút tư liệu cho cuốn tuyển tập Quang Dũng sẽ ra mắt bạn đọc dịp cuối năm nay.

Anh Nguyễn Quý Tân, một trong số sáu người con trai của bác Chương là người hiện đang trông nom tủ sách của cha mình, niềm nở đón tôi vào nhà. Khu vườn Mơ Táo, cây cối um tùm ngày trước giờ đã thay bằng dãy nhà khang trang,trông ra một hồ nước (tôi còn nhớ như vậy do lúc nhỏ hay được bố cho đi đây, đi đó cùng). Anh Tân cẩn thận lấy từ ngăn tủ sách xuống cho tôi xem những cuốn sổ tay của bác Chương với lời dặn: “Em cứ đọc, quyển nào có thơ hay ghi chép về bố em thì anh tặng luôn”. Tôi vô cùng cảm ơn anh và thầm xin phép bác Chương vì tôi biết đây là những góc khuất riêng tư nhất đối với một người ưa viết. Tôi và anh Tân cùng tìm soạn và thấy hầu hết cuốn sổ nào của bác Chương cũng có ghi chép về cha tôi, khi thì cả một bài, lúc là một câu thơ. Khi thì ghi chép những kỉ niệm vui buồn…những bức ảnh và chữ nghĩa của cha tôi được bác photo và dán vào nhiều quyển sổ to, nhỏ khác nhau. Có những cuốn sổ từ năm 1940, đôi chỗ đã sờn gáy, bạc màu nhưng nét chữ của bác còn nhìn rõ. Cha tôi vốn là người không lưu tâm giữ lại những tác phẩm của mình sáng tác, có những bài thơ làm xong thì tặng lại ngay cho một người bạn mà mình quý mến hoặc tự tay chép thơ tặng nhưng lại chép vào sổ tay của bạn và quên mất mình có những bài thơ như thế… Bài thơ Nhớ chuyện xa là một trường hợp như vậy. Trong trang cuối của cuốn sổ tay bìa nâu có dòng chữ viết to nắn nót với tựa đề: Quang Dũng trong lòng bạn - là bút tích bài thơ, cha tôi ghi: “Kỉ niệm cho Ngọc Chương 2 bài mới làm”. Đây là bài thơ chưa có trong tuyển tập và chưa công bố. Toàn bài thơ như sau:

Nhớ chuyện xa *

Em ơi vườn ổi thơm ao
Nước xanh còn động hôm nào tiếng em
Hai mươi tuổi mộng êm đềm
Ta mang trong trắng đi tìm thanh cao
Thơ sao bước bước tình đầu
Vườn sau hơi thở ngạt ngào đêm hương
Ta đi mùa cỏ đầm sương
Hoa ngâu buổi ấy thơm đường mừng em
Hai mươi tuổi mộng êm đềm
Vườn xưa dẫu muốn đi tìm được chăng
Đường xa chuyện đẹp trong lòng
Đành khuây nỗi mỏi lần trang nhớ người
5/1960
Vậy là tôi lại được gặp “Cô gái vườn ổi” sau này còn xuất hiện trong bài thơ Không đề (1970) với kí ức “Em mãi là hai mươi tuổi/ Ta mãi là mùa xanh xưa/ Giữ trọn tình đời cho đẹp”. chắc chắn một điều cả hai bài thơ chỉ nhớ về một “Cô gái vườn ổi” mà thôi. Trong một truyện ngắn, cha tôi lấy tực đề là Những trái ổi chín (Lại là ổi!..), và hương thơm vườn ổi năm nào vẫn như cuốn theo cha tôi, đẹp mãi!

Cha tôi còn vẽ rất nhiều tranh, có những bức tranh treo ở nhà, một thời gian sau không nhìn thấy đâu cả, chúng tôi có hỏi thì cha tủm tỉm cười và nói: “Bố tặng rồi”. Và tôi vô cùng thích thú khi tìm thấy “bằng chứng” về việc này. Trong một cuốn sổ khác của bác Chương, tôi đọc được một bức thư nét chữ còn rõ, được bác Chương dán vào sổ tay của mình: “Anh Ngọc Chương, tôi mang 3 bức tranh biếu anh, mừng tuổi 60 của anh. Ba bức ấy có tên là: 1/ Cây bàng, 2/ Đường ven làng Tây Hồ (có cây gạo và xe ngựa), 3/ Vườn Nhật Tân (có hoa đào về tháng Chạp… năm 1960). Bức Cây bàng tôi rất quý và chắc anh cũng vừa ý. Chỉ xin phép anh tới năm 1985 thì anh lại cho tôi được giữ, chắc lúc đó tôi cũng có một cuộc họp mặt vào quãng 65 tuổi, giống như anh ngày nay. Tôi có tí việc, hôm mồng 6 này, không xuống uống chén rượu vui tuổi lên lão của anh kịp. Xin hẹn đến 1985. Quang Dũng, Mồng 3 tết 1980.” Đúng là chỉ có cha tôi mới có cách tặng quà độc đáo và hành xử hồn nhiên như vậy với bạn bè, cha như người bị lạc vào một cõi tạm. Hiện nay gia đình tôi còn giữ một số bức tranh, bức Cây bàng tôi đang treo tại nhà cùng một số tranh khác của cha. Anh Tân còn lấy ra một bức tranh nhỏ đưa cho tôi, bức tranh bằng chất liệu bột màu, vẽ một bến sông có nhiều thuyền neo đậu, xa xa là chập trùng đồi núi… rộng hơn khổ giấy A4, phía góc phải tranh có ghi: “Bến Ngọc sông Đà, mồng 4 tết năm 1960. Lên thăm ông Sự - Mùa sông Đà cạn. Nhớ lại 1947, ngược lên Tây Tiến từ bến này. Quang Dũng.” Tôi không biết nhân vật có tên là Sự (ông Sự) ghi trong bức tranh này có còn không? Nếu còn thì thật quý hoá, thể nào tôi cũng tìm gặp và tặng ông một phiên bản của bức Bến Ngọc.

Tôi còn nhớ hồi gia đình sinh sống ở phố Bà Triệu, bức tranh này được treo ở trên nóc chiếc lò sưởi, mẹ tôi rất thích và sau đó một thời gian đã mất công tìm mãi ở nhà mà không thấy. Mẹ tôi luôn nói: “Tiếc quá, mất đâu bức tranh bố vẽ Bến Ngọc!” Gia đình chuyển nhà nhiều lần nên mẹ tôi càng đinh ninh bức tranh bị thất lạc trong quá trình dọn dẹp (dù đã tìm lại bức tranh thì giờ đây mẹ tôi cũng không còn nhận biết được vì tuổi cao, sức khoẻ và trí nhớ bị giảm sút sau mấy lần bạo bệnh). Nâng niu bức tranh đã bị rách, bốn góc phải “băng bó” và phía sau bồi bằng một tờ bìa mỏng trông thật “tội nghiệp”, tôi không khỏi bồi hồi khi hình dung ở trên Bến Ngọc này, cách đây hơn 60 năm, một đoàn trai tráng trẻ tuổi - những chàng trai Hà Nội một thuở - tràn đầy sức xuân, hăng hái nhận nhiệm vụ lên Tây Tiến, bảo vệ biên giới Lào - Việt trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong đoàn quân ấy có cha tôi, và bài thơ Tây Tiến đã ra đời sau khi cha rời xa đơn vị ít ngày. Bài thơ Tây Tiến cũng thật vinh dự là bài thơ được mừng sinh nhật lần thứ 60 (tuổi) do các Cựu chiến binh Tây Tiến - những đồng đội của cha tôi tổ chức năm 2007, giáo sư tiến sĩ Lê Hùng Lâm (một chiến sĩ Tây Tiến) là trưởng ban liên lạc. Một ngạc nhiên nữa khi tôi được anh Tân cho xem tấm ảnh của bà Giáng Kiều (một kịch sĩ trong đoàn kịch của Thế Lữ) tên thật là Kiều Dinh - một trong bốn chị em gái rất đẹp ở phố Hàng Bông những năm 1940. Anh Tân nói vui: “Người trong mộng của bố anh đấy!” Tôi chỉ có thể thốt ra: Thật là đẹp! Chữ “kiều” trong tên bà Kiều Dinh ngày ấy được cha tôi “mượn” của bác Chương làm danh từ chung để đưa vào bài thơ Tây Tiến, làm nên một hình ảnh lãng mạn cho bài thơ: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” và còn nhiều nữa, nhiều nữa những trang viết trong các cuốn sổ tay. Một bức ảnh đen trắng chợt rơi ra từ trang sổ, bức ảnh chụp rất nhiều người và có ghi chú chụp từ năm 1941, khoá học 1937- 1941, trong đó có đánh dấu bác Chương và cha tôi đứng ở hàng trên cùng. Tôi phải dùng chiếc kính lúp mới nhìn rõ được khuôn mặt của cha tôi - tôi chợt nghĩ cũng may là dáng dấp của cha tôi cao lớn nên đứng cuối cùng không bị lấp hết- khuôn mặt thân yêu với nét cười hiền hậu thoáng qua, khuôn mặt vẫn luôn in dấu trong tâm khảm tôi, xa rời tôi đã hơn hai mươi năm nay…

Cơn gió mùa lạc lõng đầu hạ làm cho trời tối nhanh hơn, mưa lắc rắc đủ làm cho những đám bụi đường tạm lắng xuống. Tôi tạm biệt gia đình anh Tân, ra về với một chồng sổ tay và bức tranh Bến Ngọc. Kỉ vật quý giá của cha tôi. Những cuốn sổ đầy ắp kỉ niệm là một minh chứng cho tình bạn trong sáng của bác Chương với cha tôi. Giờ đây hai người bạn chắc đã được sum họp - “Chia tay là đợi ngày sum họp/ Ở chốn nào kia cõi Niết Bàn/ Chén tạc chén thù mây với gió/ Đôi hồn muôn thuở hết cô đơn” (Thơ của bác Chương viết tặng cha tôi năm 2003).

Tôi có niềm tin chắc chắn rằng cả cha tôi và bác Chương đều rất vui, ở trên cõi toàn mây với gió kia vẫn đang dõi theo và cùng phù hộ cho tôi cóp nhặt được thêm những tư liệu quý giá, để tuyển tập lần này ra mắt bạn đọc tươm tất hơn. Riêng tôi coi sự ra mắt cuốn sách sẽ như một lời tri ân của tác giả - nhà thơ Quang Dũng - cha tôi, tới những độc giả đã từng yêu mến thơ ông.

* Bài thơ còn có tên là Mùa cỏ, Mùa ổi.

Tháng 5/ 2011
Bùi Phương Thảo

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]