1. Bài thơ của Phan Vũ viết vào tháng Chạp năm 1972, khi cuộc chiến tranh Mỹ-Việt đang trong giai đoạn cuối, khi sự khốc liệt và chịu đựng trên khắp xứ sở như đã đến mức tột cùng. Huỷ diệt có thể dẫn đến sớm kết thúc cuộc chiến. Bài học về hai thành phố Nhật bản vẫn còn. Có lẽ trong quyết định rải thảm Hà Nội bằng pháo đài bay B52 có mối liên hệ này.
Hà Nội - thành phố nhỏ, nghèo, lặng lẽ, ít màu sắc rực rỡ. Cái sắc màu chính khi đó là màu xanh xám. Màu xanh của rêu tường, màu xanh của áo phòng không.
Viết gửi những người đi xa khi thành phố quê hương đang bị tàn phá khốc liệt, bài thơ của Phan Vũ không có tiếng bom rơi, không có nhà đổ, không có người chết. Chỉ có lời bình thản của những ngày bình an. Giữa sự sống và cái chết, bình thản là một chọn lựa.
2. Tuy phân ra nhiều chương, nhưng bài thơ như không có sự khác biệt giữa các chương. Tất cả là cảm xúc của tác giả về phố và người Hà Nội. Ba chữ “Ta còn em” được lặp nhiều lần, mở đầu cho nhiều khổ thơ. Đại từ “em” phải chăng có thể hiểu là phố Hà Nội, là người con gái nào đó ẩn hiện suốt bài thơ? Tác giả, người ở lại trong thành phố bom rơi, như đã hoá thân. Ta còn em... vì không muốn mất và không mất.
Bài thơ nhiều hình ảnh, từng chữ, từng câu được chắt lọc kỹ lưỡng. Nhưng có lẽ điều làm bài thơ thật hay là những câu chữ chắt lọc rất đẹp ấy được viết thật giản dị. Giản dị như nói, như những lời người thân nhắn gửi. Và vì thế mà gửi gắm được tới người đọc, tới người đi xa.
3. Thơ có nhạc và nhạc có thơ. Hay vì bản nhạc đã thấm vào lòng mà đọc bài thơ luôn thấy ngân nga tiếng hát. Hay vì bài thơ ngọt ngào mà khi đọc lòng thường cất tiếng hát theo.
4.
Hà Nội - phố có nhiều câu chữ, nhiều hình ảnh “đắt”, gợi cảm xúc, gợi nhớ về những gì thật riêng của thành phố, những gì thật riêng của mỗi người. Đó là những lời tần ngần về “ngôi sao lẻ”, “chiếc lá lạc”, “mối tình hờ”, “giàn thiên lý chết khô”, “giọt sương nhoà nhoà bóng điện”, tóc “xoã xoã bờ vai”...
Một chút nao nao, một chút bâng khuâng, một chút lung linh.
Về những căn nhà cũ của ba mươi sáu phố phường. Ở Hà Nội, chỉ những nhà đã xây cất từ thời Pháp mới có thang gác bằng gỗ, cũ lắm rồi
Thang gác cọt kẹt thời gian
Thân gỗ...
Về Hồ Tây mênh mông mà đứng đâu cũng thấy chiều tan trên mặt nước
Nắng chiều phai trên sóng Tây Hồ.
Những bước chân tìm nhau
Rất vội
Về những mái chùa xưa xiêu xiêu cùng năm tháng
Tháng năm buồn lệch xô ngói âm dương
Ai đó ngồi bên gốc đại
Về tiếng chuông chiều nhà thờ quen thuộc
Chiều tan lễ,
Chuông nguyện còn mãi ngân nga...
Về một cuộc sống còn nhiều vất vả, một thuở xa xưa đã hào hoa
Toa xe điện cuối ngày,
Áo bành tô cũ nát
Lanh canh! lanh canh!
Về say đắm quên cả đất trời
Người nghệ sĩ lang thang hè phố
Bơ vơ
Không nhớ nổi con đường.
Ngay trước cổng nhà mẹ cha
Và khắc khoải của sự sáng tạo vốn không có bến bờ
Những câu thơ, những bức tranh
Đời đời
Lỡ dở...
5. Bài thơ thấp thoáng nét kiêu sa của người con gái
Rì rào cơn lốc nhỏ
Gót chân ai qua mùa lá đổ?
để rồi mọi gã trai Hà Nội si tình
Lặng lẽ theo em về phố...
Nhưng nhiều hơn vẫn là những con người của cuộc sống hàng ngày bình dị, là “bà quán” “mê câu chuyện nàng Kiều”, là “cô nàng” mắt “lúng liếng, đong đưa”, là “những chàng trai say suốt mùa”...
6.
Hà Nội - phố có nhiều câu thơ lạ và đẹp. Lạ nhưng không cố tình làm lạ, và vì thế mà đẹp hơn.
Khuôn mặt chưa quen
Bỗng xôn xao nỗi khổ!
Người ta thường chỉ nói “xôn xao nỗi nhớ”. Nhưng nhớ đã thành khổ là nhớ lắm. Thấy khổ vì người lạ thì chắc đã thầm mong nhiều. Khổ nhưng mong nên mới xôn xao.
Ta còn em tiếng trống tan trường
Áo thanh thiên điệp màu liễu rủ.
Đôi guốc cao mài mòn đại lộ
Guốc gỗ mài mòn được đại lộ bao giờ? Thuở ấy con gái Hà Nội hay đi guốc. Đôi guốc được tác giả hai lần nói đến trong bài thơ
Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá
Bỏ quên guốc bên ghế đá thì phải say sưa lắm, cũng say như “áo qua cầu gió bay”.
Ta còn em cô hàng hoa
Gánh mùa thu
Qua cổng chợ
Hà Nội có nhiều làng trồng hoa, Nhật Tân, Nghi Tàm, Quảng Bá, Ngọc Hà... những làng quanh Hồ Tây. Đàn bà, con gái nhà trồng hoa cũng thường là người gánh hoa vào phố bán. Gánh hàng hoa Hà Nội đã đi vào văn học mấy chục năm trước. Gánh gồng là việc nặng, nào có thơ gì. Nhưng “gánh mùa thu” vào phố thì thật là đẹp, thật trân trọng và biết ơn.
Thơ ca hay nói đến Hà Nội với hoa lan, hoa sữa. Cây bàng lại thường đem cho tôi thật nhiều nỗi nhớ về tuổi thơ ở Hà Nội. Lũ trẻ con chúng tôi thường đi chọc hay ném những quả bàng chín vàng ăn ngọt lừ. Rồi hột bàng phơi khô đập lấy nhân ăn béo ngậy. Cây lá xứ mình xanh quanh năm, ít cây như cây bàng lá chuyển màu từ xanh sang đỏ, rồi rụng rồi chỉ còn những cành trơ trụi khẳng khiu run run trong gió bấc (mà tác giả bài hát
Hà Nội - phố đã gọi là “cây bàng mồ côi mùa đông”).
Ta còn em chiếc lá bàng đầu tiên
Nhuộm đỏ
Đấy là khi mùa đông đến. Rồi mùa Đông đi qua mùa Xuân tới, khi trời Hà Nội hơi mưa phùn, hơi se se lạnh, cây cối trổ lộc, sẽ thật ấm lòng nhìn thấy cành cành xanh nõn lá non
Chi chít chồi sinh
Màu ước vọng in hình
Và mùa xuân bỗng xôn xao khi qua đường chợt thoáng thấy tay trần con gái trong cửa sổ
Ta còn em cánh tay trần
Mở cửa
Mùa xuân trong khung
7. “Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long”...
Tháng chạp năm 1972, sau hai năm đầu đại học ngành toán tôi đã trong quân đội và xa Hà Nội. Đêm đêm trong căn hầm bên bờ Thạch Hãn chúng tôi quây quanh chiếc đài bán dẫn nhỏ ngóng chờ giọng nói thân quen, “Đây là tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”. Biết Hà Nội bị B52 đe doạ. Rồi những ngày bỗng không bắt được tín hiệu gì, mở máy chỉ thấy u u. Nhìn về trời đêm phương Bắc xa xăm mà lòng thắt lại...
Hà Nội bé nhỏ đã qua gần một thế kỷ của những xung đột và chinh chiến, của những tàn phá và xây dựng, của những điều làm Hà Nội “đẹp và chưa đẹp”. Trong những ngày khốc liệt ấy, cái “ta còn” trong bài thơ của Phan Vũ là tình yêu bình dị của cuộc sống Hà Nội. Mãi mãi vẫn còn!
Hà Nội - phố, Em ơi!
Tháng 12, 1996
Tùng Nguyên