Thời xưa tinh xá Ni-câu,
Lưng non sương tỏa nhịp cầu treo mây.
Suối cao tung dải tơ bay,
Sớm mai hồng đượm, cuối ngày vàng pha.
Đầu non tùng bách reo ca,
Sườn mây biếc tụ quanh nhà cỏ thơm.
Chim kêu lau nội hoa cồn,
Tiếng tan như giục suối dồn âm thanh.
Sông xa uốn dải lụa xanh,
Nước ùn khói sóng bên thành Tỳ-la.
Nhà sàn Phật ngự dưới hoa,
Có đường đá xếp như là thang mây.
Trông ra một cõi non tây
Lô nhô, chầu phục như bầy voi xanh.
Sáng nay mây đỏ bên thành,
Cửa ngoài hoa rụng giăng mành tơ sa.
A-nan cung kính hầu trà,
Tỳ-kheo vân tập quanh nhà, chắp tay
Thưa rằng “con nghe lâu nay
Chúng dân truyền tụng đó đây vang đồn
Tán dương công đức Thế tôn
Bỏ ngai vàng, mở pháp môn diệu vời.
Độ cho khắp cả trời người,
Chân tâm là đuốc sáng ngời trí bi.
Phá tan nhị tướng chia lìa,
Khiến người khởi ngộ tan mê bàng hoàng.
Nơi đâu thiết dựng đạo tràng,
Là nơi chiếu rọi hào quang Phật từ.
Tánh không là lẽ như như,
Tám đường chân chính, vượt hư huyễn đời.
Tan mê, bi trí tuyệt vời,
Xa lìa tứ tướng, thoát nơi ngục tù.
Là nhật nguyệt giữa không hư,
Thuận duyên, tự tại, nhất như đạo thường.
Trời, người nhuần giải thoát hương,
Nhân dân như nước bốn phương tìm về.
Tựa nương bóng mát Bồ-đề,
Tín tâm, thập thiện, xa lìa trần lao.
Lại thêm đệ tử đức cao,
Ông Kiều-trần nọ, duyên nào quy y.
Con đầu của đức Từ bi,
Như chim hồng hạc, như kỳ diệu hoa.
Giờ là sao chiếu Ta-bà,
Khiến nên khắp cõi trần sa tỏ ngời.
Người thêm ý, kẻ thêm lời,
Truyền khen trí huệ tuyệt vời thánh vương.”
Phật ngồi sau đỉnh trầm hương,
Cánh hoa theo gió thơm vương áo Người.
Vách non khói đá ùn hơi,
Mai như tuyết rụng khắp nơi đạo tràng.
Chúng Tăng trầm mặc hàng hàng,
Sương bay trên dải y vàng cuộn tơ.
Quanh nhà gỗ dựng đơn sơ,
Cà-sa thấp thoáng như bờ hoa thu.
11.250.  A-nan hội ý lại thưa:
“Quả con nghe thấy như vừa tin trao
Rằng từ lúc ánh bạch hào
Phá tan tà đạo, độ bao nhiêu loài.
Kiều-trần-như đó, năm ngài,
Cớ sao sớm tỉnh ngộ nơi đạo hiền.
Việc này hẳn có tiền duyên,
Dễ đâu một sớm dứt liền mê si.”
Phật cười “chân tánh trí bi,
Xét trong muôn loại khác gì nhau đâu.
Thiền oai, giới định nhiệm mầu
Tỏa soi như tạng minh châu diệu vời.
Nhân duyên hình bóng chẳng dời,
Thân ta bao kiếp vào nơi trần hoàn.
Độ Kiều-trần thoát mê tham,
Cõi đời mây nổi hợp tan mấy lần.
Nguyên xưa có một hiền nhân,
Nhà giàu ruộng đất xa gần thiếu chi.
Cứu người muôn cách thiết thi,
Mở trường, bố thí, sá gì lạ quen.
Giữa đời điên đảo chê khen,
Nguyện ông như một đóa sen đại từ.
Mong sao người chẳng dối hư,
Chẳng còn chia cách chân như nhiệm mầu.
Chẳng còn cơ cực thảm sầu,
Thế nên làng xã khác đâu tình nhà.
Kể chi những kẻ xấu xa,
Tham lam gian dối để mà lợi thân.
Dù ông biết rõ mười phần,
Nhưng lòng chẳng chấp ngã nhân hẹp hòi.
Đã không nhờ cậy thì thôi,
Đã nhờ, thưng đấu đầy vơi cùng đồng.
Giúp người chẳng kể tốn công,
Chỉ mong thỏa được nguyện lòng xưa nay.
Thế nên vàng bạc kho đầy,
Rộng lòng bố thí cũng ngày tiêu tan.
Lại cho hết cả ruộng vườn,
Bà con hờn trách, xóm làng dèm chê.
Lòng ông chẳng giận kẻ mê,
Tín tâm gieo hạt Bồ-đề làm duyên.
Có năm người ở xa miền,
Vốn tay cự phú bạc tiền chắt chiu.
11.300.  Nghe danh ông bố thí nhiều,
Bàn nhau bày kế đặt điều thử chơi.
Để xem có thiệt hơn đời,
Dám liều danh dự cứu người được chăng.
Hay là cũng bọn dối giăng
Vẽ trò lấy lệ mong rằng được khen.
Mua danh bằng ít của riêng,
Vờ nhân nghĩa để xóm giềng nể nang.
Bỏ ra vài nén bạc vàng,
Mà cầu mai hậu vẻ vang tiếng nhà.
Cũng tuồng đổi chác lại qua,
Chắc gì thương xót người ta thật lòng.
Thói đời ý đục lời trong,
Phải tìm ra lẽ, mới xong việc này.
Cùng nhau to nhỏ mưu bày
Giả làm nghèo khổ, năm người đến ông,
Rằng “chúng tôi phải qua sông,
Vì có người bạn khốn cùng đã lâu.
Lại thân mang nặng ốm đau,
Con thơ, vợ dại, cơ cầu lắm thay.
Lần hồi trong mấy năm nay,
Tiền ăn tiền thuốc phải vay mãi người.
Nợ nần ngày một sinh sôi,
Bây giờ hết chỗ vay rồi biết sao!
Cả nhà đói rách lao đao,
Mà người chủ nợ cũ nào có thương,
Đang đe dọa đủ trăm đường,
Nếu không lo trả số vàng đã vay
Thì thân kia phải tù đày,
Và con gái phải sang ngay làm hầu.
Chúng tôi tuy xót thương nhau,
Nhưng cùng nghèo khó, lấy đâu giúp người.
Nên đành tìm đến xin ngài
Qua sông, khất hộ đôi lời, họa may.
Chủ kia nể mặt, nới tay,
Thì bạn tôi khỏi tù đày xót xa,
Và con gái được ở nhà,
Tảo tần giúp đỡ mẹ cha lúc này…”
Ông nghe liền thuận ý ngay,
Nghĩ không còn của trả thay cho người,
Thì dù phải đến một nơi,
Hạ mình năn nỉ đôi lời giúp cho
Gia đình kia thoát nguy cơ,
Cũng là việc tốt ngần ngừ chi đâu.
Theo người ông bước đi mau,
Đến bờ sông sẵn thuyền câu buộc chờ.
Vừa ra trời bỗng gió to,
Thuyền con dễ bị nước xô sóng nhồi.
Năm người không biết lội bơi,
Trong cơn hoảng hốt sinh lời tố nhau.
11.350.  Khiến ông chợt hiểu nông sâu,
Nhận ra năm kẻ nhà giàu quen tên.
Đã từng nổi tiếng đảo điên,
Đã phen tráo trở bạc tiền hại ông.
Bây giờ đặt chuyện qua sông,
Bày trò khất nợ thử lòng ta chăng.
Ngờ đâu sóng gió bỗng dưng,
Năm anh sợ chết đổ cùng tội nhau.
Sóng càng nổi gió càng mau,
Thuyền như lá cuộn trước sau mịt mờ.
Đang khi cá đợi sông chờ,
Tử sinh kẽ tóc khe tơ theo liền.
Ông bèn quả quyết đứng lên
Nói “tôi cố gắng đẩy thuyền qua sông.
May ra thoát nạn bão giông,
Tới bờ kia để các ông trở về.”
Nói rồi nhảy xuống sông kia,
Vừa bơi vừa đẩy thuyền kề bờ cao.
Năm người vội vã nhảy vào,
Còn ông yếu sức sòng trào cuốn đi.
Trông theo nào thấy dấu chi,
Năm người run rẩy vội quì bên sông.
Hối vì đen dạ xấu lòng,
Bày điều thử thách những mong bới người.
Vì không tin ở trên đời,
Có ai mà chịu cứu người thiệt thân.
Bây giờ mới rõ giả chân,
Lòng như được ánh đuốc thần rạng soi.
Bao nhiêu tà kiến tan rời,
Thiện tâm tựa cánh sen tươi hé dần.
Thiết tha quì khấn thánh nhân:
“Chúng con xưa để tham sân đưa mình,
Ơn thầy chỉ lối quang minh,
Cho cùng hối cải chí tình từ đây.
Nương theo đức lớn của thầy,
Trên đường cứu độ nguyện nay một lòng.
Kiếp sau xin được theo cùng
Bước thầy như thể cánh hồng trí bi.”
Nguyện rồi năm phú hộ kia
Tiếc gì của cải ngại gì khó khăn.
Tiến tu bao kiếp hồng trần,
Hợp tan như nắm phù vân đổi dời.
Bây giờ lại hợp năm người,
Y nương chính đạo như lời nguyền xưa.”
Cửa ngoài hoa rụng như mưa,
Tiếng chim nào hót trên bờ cây cao.
Gió đưa hương thoảng rừng đào,
Gió đem hoa trắng đậu vào lưa thưa.
Phật trải ngọa cụ bằng tơ,
Nằm nghe chim hót mấy bờ hoa lay.
Đỉnh non như chiếc tàn mây,
Núi xanh xanh biếc như xây vòng thành.
11.400.  Dưới hoa trầm mặc kinh hành,
Phật xuôi tay ngủ như cành ngọc lan.


Phạm Thiên Thư thi hoá tư tưởng Dàmamùka Nidàna Sùtra (Kinh Hiền Ngu), Trần thị Tuệ Mai nhuận sắc.

[Thông tin 1 nguồn tham khảo đã được ẩn]