Dưới đây là các bài dịch của Lê Xuân khải. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 77 trang (764 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Mã Ngôi dịch (Viên Mai): Bản dịch của Lê Xuân Khải

“Trường hận ca” đừng đọc nữa nào
Cõi đời cũng có vợ chồng Ngâu
Thạch Hào thôn ấy chồng xa vợ
Lệ điện Trường Sinh thấm tháp đâu

Ảnh đại diện

Đồng Kim thập nhất Bái Ân du Thê Hà tự vọng Quế Lâm chư sơn (Viên Mai): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Núi chùa chẳng Trung Nguyên vào cõi
Đi đến cùng lạ quái càng phô
Quế lâm trời nhỏ núi to
Núi nào cũng thấy đứng nhô ngoài trời
Ta Thê Hà lên chơi kè cuối
Mặt lướt qua gió thổi hoa sen
Bỗng không thấy mặt trời lên
Bầu trời đều bị núi chen khuất nhìn
Dư năm dặm động xuyên lưng núi
Đốt đuốc vào quạ vội bay tung
Trăm nghìn dáng đá lạ lùng
Thấy người muốn cự dữ hung gằm ghè
Muôn thuở không thấy nghe mưa gió
Bầy chuột tiên dựa đó làm nhà
Ra ngoài lên ngắm núi xa
Biển mây bát ngát là là dưới chân
Ngờ Bàn Cổ còn thân sau chết
Móc vào nhau đầu mắt chân tay
Nữ oa lại ngờ họ này
Tài làm biến bảy mươi hai trong ngày
Cầu vồng xanh dưới mây mù mọc
Mù yêu phun Trác Lộc Xi Vưu
Thi La áo trễ vai đầu
Đùa sen mẹ quỷ tóc sào Hạ, Ô
Trước hỗn độn mơ hồ trời đất
Phong luân nghiêng nước cát bay mù
Núi sông người vật một lò
Tinh linh nhảy nhót hét hô vạn ngàn
Đây đó chơi tương thân tương ái
Thành đá ngay một thổi cương phong
Khí trong bốc khí đục đông
Nay sống không được cũng không được dời
Chỉ kì quái trên đời ngồi đó
Nếu không thì tạo hoá dẫu tài
Dẫu cho nghìn mắt nghìn tay
Khó mà uốn nắn nổi bầy tinh linh
Huống gầm trời tội tình luôn sẵn
Lấy gì được lũ muốn chọc trời
Kim đài công tử rượu mời
Nghe ta chẳng chẳng những lời hô điên
Lại chỉ các non liền làm chứng
Mây đến đi cuống quýt tay vời
Gió nam thổi mặt trời rơi
Say mèm trên ngựa cương lơi bước dời
Người vạn dặm chân trời ta vốn
Bỗng đem buồn treo tận trăng tây

Ảnh đại diện

Đáo gia tác (Tiền Tải): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Mai đài biếc tường đông sớm tạ
Quế tường tây hai đoá gió rơi
Dạy con ngày trước đây nơi
Lòng con nhớ mẹ mẹ ơi con về
Năm băm bốn bề bề tội lỗi
Trăm nghìn muôn niềm nỗi lạnh tanh
Thềm phơi tráp cất áo manh
Mai đốt văn cúng chỉ rành buồn thêm

Ảnh đại diện

Thanh Viễn đạo sĩ dưỡng hạc giản (Tiền Tải): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Núi so mây còn thấp
Trong lùm tre suối cong
Tiếng suối trong mây đọng
Xanh trắng lẫn mông lung
Tinh hồn há chơi dạo
Câu hay sợ rối lòng
Hạc ăn ai thóc gạo?
Rào hạc ai sửa trông?
Bậc đá trời nắng chiếu
Khuyết áo mầu rêu phong
Ngồi nghĩ Ân Chu tới
Cõi đời lo vô cùng!
Núi xanh thành quách đổi
Tuổi già theo độ sương
Vượn kêu xuống uống nước
Uổng phô cánh hoa hồng

Ảnh đại diện

Hán thượng phùng chư thân cố luỹ yêu nê ẩm (Vương Hựu Tằng): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Quán cao phách giục ánh đèn soi
Đại Nguyễn dìu nâng Tiểu Lục mời
Khó được đất người ta gặp gỡ
Lẽ nào đêm đẹp lão không vui
Trung niên người quá buồn vui lẫn
Thanh Hán giang liền nhập rẽ trôi
Thân thích nơi chân trời hiếm lắm
Hoài Nam gạo rẻ phải về thôi

Ảnh đại diện

Đồng giang (Vương Hựu Tằng): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Cây nhuốm màu buồm biếc
Mù non thoắt mắt giăng
Đến thăm cảnh các suối
Lên ngắm đình hợp giang
Mưa bụi trâu đen đứng
Bãi bồi chim trắng dừng
Sao thăm được ẩn sĩ
Câu đẹp hứng ta dâng

Ảnh đại diện

Tây sơn (Lưu Đại Khôi): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Tây Sơn qua mưa, mù núi ban mai giăng đầy
Nghìn dặm gò bằng đầm rộng
Mấy tiếng chim hót trong lùm cây
Mười bức bình phong vẽ cảnh Giang Nam

Ảnh đại diện

Liệt nữ Lý Tam hành (Hồ Thiên Du): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Biển cả sao mênh mông vậy
Dẫu nghìn năm chẳng thấy khác nào
Thái Sơn tự bảo là cao
Tinh vệ vẫn ngậm đá vào mỏ bay
Chim tinh vệ thấy bay buổi sáng
Cánh chim chiều vẫn dáng vệ bay
Máu tuôn thành đụn cát đầy
Một sớm thấy đã đường dài đắp nên
Đâu chỉ có đường nền dài rộng
Còn vút lên thành đống thành cồn
Mặt gái như ngọc tươi ròn
Mầu da như thể thoa son phớt hồng
Hơn mười bốn tuổi vòng trăng náu
Tuổi mười lăm mười sáu đào tơ
Gió xuân yểu điệu thướt tha
Trăng kia còn phải trước cô thẫn thờ
Trong nhà cửa dì cô bác mợ
Cả những bà goá bụa xóm giềng
Người cười nói cô dửng dưng
Người vui cô chỉ rưng rưng khóc hoài
Ngày lại ngày kéo dài như thế
Không thể lành vết nẻ đau thương
Tựa như ăn hóc phải xương
Họng đau lan xuống rốn vùng hai hông
Nghe tiếng mẹ cô không đáp gọi
Cứ đi đi lại lại trong phòng
Rõ là cô chẳng điên cuồng
Cũng không mắc phải bệnh lòng ngây ngô
Cô đem việc người cha hỏi mẹ
Là kẻ nào giết bố của con
Hôm qua đứng trước cửa nhìn
Mắt như muốn rách cố in dáng hình
Kẻ giết cha vẫn nghênh ngang đó
Ngựa ruổi rong tây phố lại đông
Bực không dao nhọn bạch dương
Hồng nghê tôi luyện hai đường hào quang
Dao tước quỳ cô mang mài sắc
Giấu trong người ba tấc từ lâu
Một lòng nguyện với kẻ thù
Xương tan thịt nát máu ngầu cùng nhau
Kẻ thù đó chúng sao mạnh mẽ
Kéo lũ đàn lại khoẻ như trâu
Như sói đói đứa đi đầu
Loài cày hung dữ kẻ sau khác nào
Sợ sẻ vàng diều hâu chống đọ
Bị chúng nhai nát nhỏ thành tương
Đành đem thưa trước huyện đường
Mà sao quan huyện xem dường điếc thinh
Cô lại phải thưa trình lên phủ
Quẩn rồi quanh việc của trung thừa
Uy nghiêm đường bệ có dư
Hàng hàng lính lệ oai phong dữ dằn
Biết đâu người ngồi trên cao đó
Thảy cũng như tượng gỗ đất thôi
Xương nằm dưới đất nát rồi
Bao giờ thù trả than ôi bao giờ
Con côi nhỏ mù mờ mọi nhẽ
Nghe người ta nói ở kinh thành
Kinh thành nhiều bậc quan thanh
Các ngài thảy đã nổi danh tỉnh đài
Mũ thiết trụ quý ngài vẫn đội
Ngang lưng kình hải trãi đai vòng
Sừng hải trãi nhọn lại cong
Có thể có được nhiều lòng sót thương
Cô liền búi gọn gàng mái tóc
May áo theo dáng vóc thân nàng
Thứ gì tay sách tay mang
Mảnh lụa mền có những hàng máu in
Là gì vậy viết lên trên đó
Chữ lờ mờ màu lụa trắng tinh
Nhiều gian khó nhỏ thân hình
Đề phòng chống đỡ tự mình lo thân
Con gái mẹ yếu nên thương quá
Xin mẹ đừng làm ngã lòng con
Con chào mẹ ra đi luôn
Bước ra khỏi cửa tiếp trên đường trường
Nay đang độ tiết đông tháng một
Tháng này trời lạnh nhất mùa đông
Hoàng Hà nước đóng thành băng
Thấu vào da thịt tầng tầng tuyết rơi
Gió bốc mạnh cả trời cuốn lại
Người đi đường mặt dại xạm tro
Tay giơ không thấy tối mò
Đêm dài ôm chặt cây khô rừng già
Tiếng hồng nhạn canh ba loáng thoáng
Sang canh tư tiếng vẳng cáo cày
Canh năm lại tiếp đường dài
Vòng vo chỉ thấy mệt nhoài thèm ăn
Ngước nhìn thấy trường an trước mặt
Ụ nhấp nhô cao tít tường thành
Mười hai cửa đã qua nhanh
Đến nơi thoáng rộng tung hoành dọc ngang
Tay cầm lụa từng hàng chữ viết
Cởi bớt ra áo bết bụi nhàu
Phủ ngự sử quỳ cúi đầu
Đây nơi đình uý thềm cao ba tầng
Quan thượng thư đoan trang cao lớn
Khi ra ngoài lính đón thét đường
Mũ thiết trụ dáng oai phong
Có hình hải trãi đai vòng ngang lưng
Loài hải trãi dẫu sừng không có
Đâu thèm đem ra đọ dê bò
Cô tựa vào cột kêu to
Mặt trời như thể bị mờ nhoà lây
Khí oan kết tầng mây bốc thẳng
Trời vốn giầu vốn nặng lòng thương
Có đất có thể tựa nương
Có trời có thể tỏ tường nỗi oan
Thành cao chẳng vì hờn mà sụt
Gò không do nước mắt sối bằng
Minh phủ lệnh gọi liền sang
Vẫn thấy minh phủ trễ tràng hơi lâu
Trước minh phủ cúi đầu quỳ lạy
Nước mắt rơi sông chảy về đông
“Mọn này nghìn dặm trên đường
Đời nhiều căm uất phải mang mối thù
Thù có thật toa điêu đâu dám
Xin quan trên kẻ mọn này tin
Thù cha nặng nỗi oan khiên
Nặng nề oán khổ liên miên khôn chừng
Nay một sớm rửa xong thù hận
Đáy giếng sâu lại hiện ánh dương
Cha cười ở dưới suối vàng
Kẻ thù ngoài chợ như tương băm vằm
Thương tấm thân yếu hèn để được
Hầu hạ đun cơm nước nguyện theo”
Nói lời nghe tiếng nghẹn ngào
Như con nai trói chờ dao bếp kề
Minh phủ nghe não nề than thở
Than thở xong lại cứ sụt sùi
“Động Đình lớp lớp sóng dồi
Không nơi uốn lượn sắc trời in xanh
Cùng Lai Bản như thành dốc đứng
Chín khúc quanh cũng chẳng hiểm nguy
Việc này ta sẽ chủ trì
Quan về ngươi báo tức thì phân minh”
Kẻ giết cha vẫn nghênh ngang đó
Bỗng cả nhà kinh sợ hãi hùng
Thế như bệnh sởi phát bùng
Đến sao gấp gáp khôn đường thuốc thang
Cả một lũ ngang tàng càn rỡ
Lùa đến như gà qué trói gô
Đầu sỏ khoá cái còng to
Lệnh đem tất cả tống cho vào tù
Không yên cương giật gò ngựa có
Kể từ nay mãi bỏ đường tây
Cúi đầu minh phủ lậy này
Xương tan thịt nát khó thay báo đền
Sữa dê đực trước nghìn lần khó
Nay tên quay về chỗ túi tên
Làng cô mắt dõi xa nhìn
Nhà cô hoang vắng xanh rờn cỏ sân
Bà mẹ goá ngày thân tựa cửa
Vợ Kỷ Lương than thở trong lòng
Con đi nuốt bách mẹ mong
Đến nay bách ngọt tựa đường đã quen
Dẫu bách nay trở nên ngon ngọt
Mẹ buồn này khó nhạt khó phai
Mặt con như ngọc trước đây
Đung đưa vai nhỏ tóc mây đen dài
Môi con gái son tươi hoa nở
Ngón tay dài măng trổ xuân sang
Khóc lóc nhiều cát bụi vương
Mặt mày nay đã sẹo mang sần sùi
Ở trong phòng hình hài muốn náu
Nhìn ngỡ đây là gấu ốm nằm
Bà con cô bác đến thăm
Cái lược chẳng dắt cái trâm chẳng cài
Bên hàng xóm có vài bà tới
Xúm quanh cô han hỏi dìu nâng
Thảy đều mắt lệ rưng rưng
Thảy đều giàn giụa không ngưng lệ trào
Các bà xóm hồi lâu về hết
Bà mối liền dịu ngọt bước vào
Ba lần xin gặp khó sao
Ân cần giọng nói ngọt ngào lời khuyên
Công tử vốn ở bên nam huyện
Nết đoan nghiêm khó kén ai bằng
Hai hòm đầy ắp bạc vàng
Mặc không bao hết mịn màng lụa tơ
Người quan tước đương chờ đương đợi
Nhìn cửa nhà chói lọi vinh hoa
Ý nhằm kén gái nết na
Gái ngoan hơn cả dù là Ky Khương
Quay lại đáp chi li bà mối
Thân hàn vi chẳng rối cảnh buồn
Nhà không em dưới anh trên
Tôi nơi trông cạy của thân mẹ già
Mỗi tâm nguyện bỏ ra công sức
Khâu trai tay đồ mặc dép giầy
Theo người nỡ bỏ nơi này
Chia ly quên mẹ ơn dày nghĩa sâu
Tuổi mẹ như đèn dầu trước gió
Như quỳ non sương phủ mệnh con
Bỗng nhiên bệnh mẹ nặng hơn
Sinh mệnh mẹ tắt theo hồn người cha
Con gái đặt giữa nhà quan quách
Đắp điếm xong mả đẹp mồ yên
Việc lo khi đã vẹn tuyền
Bà con cô bác mời lên đủ đầy
Mời hộ cháu vào đây trưởng họ
Bước lên thềm trưởng có mặt ngay
Mời cho hàng xóm quanh đây
Xóm giềng đến đã đứng đầy ngoài trong
Lên mười tuổi theo cùng cha mẹ
Tuổi ấu thơ lứa trẻ ngây ngô
Mười lăm mang nặng oán thù
Mũi cồn cay xé dấm chua đổ vào
Hai mươi tuổi lo sao thù trả
Việc báo thù nguy khổ càng tăng
Ba năm lo đến Đại Lương
Yên nam Triệu bắc biên cương dãi dầu
Than gái đi lấy đâu ra bạn
Dừng nơi đâu lựa chọn hẳn hoi
Trăng treo vằng vặc sáng soi
Quyết không chịu để thân rơi nhơ lầy
Lốm đốm gấm lông dầy chim trĩ
Biết đề phòng lưới chỉ giăng không
Từ đây ở hẳn trong phòng
Đóng chặt cánh cửa hai khoang then cài
Mầu son nhuộm thừng dài chín thước
Thân ung dung treo ngược lên xà
Tươi sao cây quế mầu hoa
Hoa kia đã đẹp lá kia lạ lùng
Hương toả ngát cây bừng tươi tốt
Mọc ở nơi khúc ngoặt núi hoang
Côn Lôn ngùn ngụt lửa loang
Ba ngày ngọn lửa vẫn hăng chưa tàn
Tảng đá lớn cao hơn đứng đó
Đá nhỏ nằm lố nhố dưới chân
Chi bị cháy huệ khóc than
Muôn loài muôn giống thảy đen một màu
Giữa đám cháy bỗng đâu ngọc trắng
Rét căm căm chói sáng tuyết bay
Mồ cô bằng ngọc đem xây
Trồng một cây quế lên ngay trên mồ
Đêm lại đêm sao to ánh chiếu
Như thấu lòng con hiếu nằm đây
Ánh sao chiếu thấu dưới cây
Nghìn thu soi rọi ngời ngời hình dung

Ảnh đại diện

Xuất quốc môn tác (Hàng Thế Tuấn): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Che núi đình đô bụi bốc dầy
Một hàng liễu gió quất người bay
Bướm xoè cánh đợi trưa phơi nắng
Sen lộ gương chờ thu chuyển may
Bạn bảy năm chơi tình tạm gói
Chí muôn ngày gắng việc toàn sai
Nghiệp danh sơn mái nghèo không phụ
Sử thảo đủ rành lỗi trước đây

Ảnh đại diện

Nghi Châu đạo trung ức cố viên mai tín (Hàng Thế Tuấn): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Mua được hoa mai ngắm tỉa hoài
Bâng khuâng trước khí cốt riêng mai
Thành hoang trạm cổ người nghìn dặm
Trục trặc nên hương chẳng đến đây

Trang trong tổng số 77 trang (764 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ ... [4] [5] [6] [7] [8] [9] [10] ... ›Trang sau »Trang cuối