Dưới đây là các bài dịch của Lê Xuân khải. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 77 trang (764 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Thập nhất nguyệt thập tứ dạ phát Nam Xương nguyệt giang chu hành (Trần Tam Lập): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Sương như sâu li ti
Như trâu nằm thế sóng
Bọc thuyền ta trên sông
Trăng soi như kén trắng

Ảnh đại diện

Giai Thạch Di độ giang (Thẩm Tăng Thực): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Mới tránh Hộc Ky nước xiết dòng
Mờ mờ Anh Vũ bãi xa trông
Thuyền con hai khách ngồi năm hết
Ngày sáng nghìn sầu gửi nước trong
Lan dạ vẫn đây lòng chí sĩ
Bạc đầu dừng lại chí ngu công
Chỉ nhờ sân bách lòng thanh thản
Trăng úa canh tư chiếu góc sông

Ảnh đại diện

Bát nguyệt lục nhật quá Bá kiều khẩu chiếm (Phàn Tăng Tường): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Liễu vàng hơn bụi cuốn đường chiều
Mày biếc nhăn hoài mấy tháng thu
Trăng nửa vành vàng hơn cả liễu
Nam cầu buộc ngựa khách dâng sầu

Ảnh đại diện

Thuý Vi đình (Trương Chi Động): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Sáng trắng chảy về tây
Như tấm lụa dài lắm
Không lên Thạch Đầu thành
Hào trời ngỡ chưa hẳn
Bao đống gò tránh đi
Hình thế chợt nổi hiện
Hôm nay trời trong xanh
Không mây mù nghìn dặm
Nắng chiều hắt ánh vàng
Ruộng đồng màu xanh thẫm
Thước cây che trăm thôn
Mảng mù liền mấy huyện
Nam bắc sáng liền nhau
Không bị bến bãi chắn
Cô Thục và Chu Phương
Chỉ trong tầm gần gặn
Vua Bảo Đại tuy hèn
Đình sông này trội hẳn
Gió mát sua oi nồng
Đêm đêm trăng du ngoạn
Nghiệp bá chợt dựng tan
Non sông mãi xán lạn
Ăn bùn giếng ếch còm
Nhìn trời cao có hạn
Bay cao lo cánh lông
Để biết biển rộng lớn
Hà bá khinh Giang thần
Hai con sâu nhỏ ngắn
Ta kém về mưu xa
Tuổi già hơi thoả mãn
Lên cao may thành thơ
Hứng bút trào hưng phấn

Ảnh đại diện

Huệ Sơn kỷ du (Lý Từ Minh): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Nhị Tuyền chân núi chảy
Đầm nước nuôi rong sậy
Bầu trời xuân bóng in
Núi tĩnh nghe cá quẫy

Ảnh đại diện

Thiên Thai thạch lương vũ hậu quan bộc bố (Nguỵ Nguyên): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Thác Nhạn Tưu khói bay biêng biếc
Nghe ì ầm tiếng thác Trung Điều
Nhất là thế thác Khuông Lư
Trên cao trút xuống như Hà như Giang
Thác Thiên Thai có riêng một vẻ
Thác cũng thường, lạ ở cầu đây
Người nằm vươn một cánh tay
Tám vạn tư trượng sức này xé ra
Chín giải sương Ngân Hà phóng xuống
Vậy nên ta đến đúng kỳ mưa
Gió gào hai vách núi thu
Gió tùng một dậy sóng xô muôn trùng
Suối tuôn tràn cướp đường du khách
Đỉnh núi liền thành quách bốn bên
Như muôn xe chạy sấm ran
Cỏ cây đỉnh núi cũng toan đổi miền
Chỉ còn mỗi rồng ngâm hổ thét
Mưa chợt dừng trăng ướt nhô lên
Thác nước động thác trăng yên
Nghìn non vạn núi âm còn một thôi
Mọi tiếng động bên tai đều ắng
Tĩnh mịch nghe ngỡ sóng Khúc Giang
Đây là biển dựng mây giăng
Ta nhìn thác đổ triều dâng đã từng
Hào khí đó ắp trong trời đất
Nghe bằng tai nhìn mắt lại không
Đàn trời nghe phải tập trung
Thiên nhiên cảnh lạ rộng lòng tặng ta
Lắc đầu cười sư già chùa núi
“Thác nước trăng đó nói là thường
Đẹp sao bằng được thác băng
Ngọc tan quỳnh vỡ đọng ngừng không trôi
Kẽ tầng băng ngời ngời sáng rỡ
Băng tích dồn bỗng đổ từng chồng
Như là đất sụt trời quang
Băng trước vỡ lở tiếp tầng băng sau
Ngày trăm lần sụt nhào núi ngọc
Lúc bấy giờ tiếng mục tiều không
Khách chơi guốc gỗ cũng ngừng
Sư già chống gậy mặc lòng thẩn thơ
Cảnh trong núi không ra ngoài núi
Gặp chàng trai khó nói Vũ Lăng”
Núi nhoà trăng lặn nói xong
Dưới cầu chỉ thấy khói giăng xanh mờ
Sấm ì ầm kèm theo mưa gió
Cuồn cuộn trôi như thể Hà Giang

Ảnh đại diện

Kỷ Hợi tạp thi kỳ 125 (Cung Tự Trân): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Sinh khí chín châu sấm gió đâu
Im lìm muôn ngựa thấy lo sầu
Ta khuyên trời hãy thêm hăng hái
Để có nhân tài phá phách mau

Ảnh đại diện

Tây giao lạc hoa ca (Cung Tự Trân): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Cho là lạ, tây giao hoa rụng
Thơ xưa rày toàn những thương xuân
Tây giao xe ngựa hết dần
Định Am mua rượu đến lần viếng chơi
Ngườ thăm xuân, chẳng ai biết đến
Mọi người cười, người tiễn xuân đi
Bạn bầu ba bốn một khi
Đến nhìn sờ sững, khiến si mê hồn
Như Tiền Đường triều đêm dâng cuốn
Như Côn Dương trận chiến sáng ra
Như thiên nữ tám vạn tư
Mầu son rửa mặt đổ từ trời mây
Thích phiêu bạt rồng bay phượng múa
Chép Cầm Cao sóng trở lại trời
Cung Ngọc Hoàng trống rỗng rồi
Ba mươi sóng giới không mày ngài xanh
Lại như người bình sinh lo đến
Hoảng hốt nhìn quái đản sinh sôi
Tam tạng người đã đọc rồi
Thích Duy Ma Cật những lời nói hay
Hoa tịnh thổ rơi dầy bốn tấc
Nhắm mắt suy thần mặc ruổi rong
Đến nơi tịnh thổ chưa từng
Mượt mà lời tạp hàng hàng bút hay!
Hoa nở mãi như cây mong được
Suốt bốn mùa đẹp trước mưa bay
Năm mười hai tháng vòng quay
Đêm đêm hoa nở ngày ngày hoa rơi

Ảnh đại diện

Vịnh sử (Cung Tự Trân): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Phồn thịnh Đông Nam mười mấy châu
Oán ơn đều thuộc lớp sang giầu
Khách quen làm muối toàn thao túng
Tài tử quạt tròn chiếm thượng lưu
Tránh chiếu sợ nghe tù chữ nghĩa
Viết văn thảy bởi cái chi tiêu
Điền Hoành nghĩa sĩ đi đâu cả
Hay đã quay về kiếm liệt hầu?

Ảnh đại diện

Xuất Gia Dục quan cảm phú (Lâm Tắc Từ): Bản dịch của Lê Xuân Khải

Cõi tây trăm thước cửa quan hùng
Nơi ngựa trú chân vạn dặm đường
Liền với cây Tần đao mái uốn
Đè lên mây lũng giải thành cong
Thiên Sơn vai sát vươn vòi vọi
Hạn Hải mắt trông trải mịt mùng
Ai bảo Hào Hàm nghìn thủa hiểm
Chỉ là viên đất nhỏ quay trông

Trang trong tổng số 77 trang (764 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] ... ›Trang sau »Trang cuối