Dưới đây là các bài dịch của Đất Văn Lang. Tuy nhiên, Thi Viện hiện chưa có thông tin tiểu sử về dịch giả này. Nếu bạn có thông tin, xin cung cấp với chúng tôi tại đây.

 

Trang trong tổng số 41 trang (406 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ... ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Bi cụ (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Chàng từ lúc băng ngoài gió hú
Chỉ trăng tường đồn trú nơi nào
Xưa nay lều trại luỹ hào
Người đi chinh chiến xó nao cũng nhà
Gió quần quật thịt da đau cứa
Nước sâu sâu vó ngựa mỏi chồn
Lính biên tựa trống ngáy dồn
Chiến binh ôm ngựa ngủ cồn cát hanh
Nay ở Bạch Đăng thành đất Hán
Mai lại Thanh Hải mạn trời Hồ
Núi xanh cao thấp nhấp nhô
Suối sâu liền đứt quanh co ven lùm
Trên đỉnh núi tuyết trùm xanh trắng
Dưới lòng khe nước lặng nông sâu
Xót chàng giáp mỏng áo nhầu
Nghĩ về nghĩa lớn mày cau nhẫn nhường
Trên trướng gấm quân vương biết chớ
Nét chinh phu khắc khổ ai tô
Hãy thương đời lính giang hồ
Xa nhà dầu dãi lâm vô hiểm nghèo
Thân gió bão hang beo ổ rắn
Đầu dãi dầu mưa nắng tuyết sương
Nhìn trời mây trắng tha hương
Lên lầu mỗi lúc càng vương nặng sầu
Sau chia biệt góc cầu hôm ấy
Biết giờ chàng vùng vẫy nơi đâu
Mấy người chinh chiến bấy lâu
Vẫn coi sinh tử nhẹ hầu bồng tang
Vung mũi giáo dọc ngang đền nợ
Phá vòng vây khép hở liều thân
Núi Kỳ nghĩa trũng trăng ngần
Bến Phì gò mộ gió dâng bồn chồn
Gió bồn chồn gọi hồn tử sĩ
Trăng mênh mang soi kỹ chinh phu
Chinh phu ai khắc hình thù
Khóc hồn tử sĩ xuân thu ai từng
Ôi tranh đoạt không dừng triều cũ
Giờ đi ngang khách rủ lòng thương
Mấy ai thoát khỏi sa trường
Hoạ hoằn, tóc đã điểm sương mới về
Nghĩ cảnh chàng mải mê giục vó
Ba thước gươm một bộ yên cương
Đuổi trăng vượt gió sa trường
Tên reo đầu ngựa giáo giương khắp thành
Trăm bề bộn công danh còn dở
Muôn nhọc nhằn gian khổ chưa ngơi

Ảnh đại diện

Xuất chinh (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Dưới chân cầu nước xanh trong vắt,
Lối cỏ xanh liền mặt nước xanh
Nước sông sùng sục cuốn nhanh
Sóng cầu lặng lẽ vây quanh sóng lòng
Tiễn đường bộ thiếp không bằng ngựa
Tiễn đường sông thiếp chửa bằng thuyền
Nước trong nào rửa nhạt phiền
Cỏ non thơm ngát chẳng thuyên ruột bầm
Lời trao lời, tay cầm tay chặt
Chân theo chân, áo sát áo hơn
Theo chàng, lòng thiếp trăng tròn
Lòng chàng vạn dặm như hòn núi xanh
Ném ly bôi, múa thanh bảo kiếm
Quơ giáo ngang trực điểm hang kình
Học Trưng Vương lấy Động Đình
Học Ngô Quyền bủa thuỷ chinh Bạch Đằng
Tuyết trắng nhuộm ngựa chàng trắng toát
Ráng đỏ in áo khoác đỏ màu
Chuông ngựa dồn, trống hối mau
Ánh nhìn vạn nỗi, chân cầu đôi phương
Bồi hồi ngóng hút đường cờ hiệu
Quân xa về Tế Liễu hội binh
Hàm Dương quân kỵ đăng trình
Theo quân chàng phải dứt tình mà đi
Liễu dương liệu hiểu gì chăng hỡi
Có nghe lòng thiếp rối như tơ
Hoa mơ rụng, bóng cờ mờ
Mây giờ về núi, mình giờ xa nhau
Chàng đi áo bạc nhàu sương gió
Thiếp về buồng lạnh nhớ chiếu chăn
Ngoái nhìn, mình đã cách ngăn
Chỉ còn núi biếc mây giăng trắng trời
Bóng Hàm Dương bời bời chàng ngóng
Bóng Tiêu Tương phấp phỏng thiếp trông
Khói Tiêu Tương mịt bờ sông
Cây Hàm Dương kín từ đông sang đoài
Cùng ngoái lại  tìm hoài hút mắt
Thấy bạt ngàn xanh ngắt ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngút một màu,
Lòng chàng dạ thiếp ai sầu hơn ai?

Ảnh đại diện

Loạn thời (Đặng Trần Côn): Bản dịch của Đất Văn Lang

Thuở gió bụi thổi tung trời đất
Khách má hồng chất ngất truân chuyên
Ai gây nên cảnh đảo điên?
Lão trời mê ngủ thản nhiên cựa mình
Trống Trường Thành rung rinh trăng lạnh
Khói Cam Tuyền quánh quạnh mây bay
Đức vua vỗ kiếm quắc mày
Nửa đêm truyền hịch sắp bày quân binh
Ba trăm năm thanh bình vụt dứt,
Khắp võ quan nhậm chức khoác bào
Sứ truyền sớm giục anh hào
Việc công là trọng sá nào tình riêng
Tay thắt chặt đai yên cung tiễn
Lòng nặng tình oanh yến thê nhi
Ải xa phần phật quân kỳ
Đùng đùng trống trận, từ ly quặn lòng
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào hiệp
Xếp bút nghiên theo nghiệp cung đao
Đoạt thành dâng chín tầng cao
Nguyện vung kiếm thép xông vào nguy nan
Chí làm trai dặm ngàn da ngựa,
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa lông hồng.
Giã nhà vào cuộc tang bồng
Vút roi đuổi gió băng sông vượt gành

Ảnh đại diện

Kim Lăng ngũ đề - Ô Y hạng (Lưu Vũ Tích): Bản dịch của Đất Văn Lang

Cầu Chu Tước rậm cỏ gai hoang
Ngoài ngõ Ô Y nắng xỉn vàng
Lầu Tạ Vương xưa ngàn én đậu
Giờ bay tản khắp mái tranh làng

Ảnh đại diện

Trì thượng (Bạch Cư Dị): Bản dịch của Đất Văn Lang

Bé gái bơi thuyền bé
Trộm sen trắng lỉnh về
Vệt bèo in dấu tích
Lém lắm, mà ngô nghê!

Ảnh đại diện

Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu): Bản dịch của Đất Văn Lang

Người xưa cỡi hạc về tiên cảnh
Chốn cũ trơ lầu gió đuổi chơi
Biền biệt hạc vàng bay một thuở
Chơi vơi mây trắng dạo muôn đời
Hán Dương sông tạnh cây in bóng
Anh Vũ cồn thơm cỏ lẫn trời
Chiều xuống quê nhà xa khuất dạng
Khói giăng sóng gợn giọt buồn rơi.

Ảnh đại diện

Điệu tiên sư (Tuệ Trung thượng sĩ): Bản dịch của Đất Văn Lang

Ngâm dứt một bài ca giải thoát
Vắt ngang sáo trúc nhởn nhơ về
Vô thường rũ sạch trong đầu hết
Trâu lấm cỡi về sướng thoả thuê

Ảnh đại diện

Xuân vọng (Đỗ Phủ): Bản dịch của Đất Văn Lang

Sông núi đây mà nước đã suy
Mùa xuân gai cỏ ngập thành trì
Đau thời hỗn độn hoa rơi lệ
Chim nhói tim nhìn cảnh biệt ly
Ba tháng lửa tràn sao kể siết
Ngàn châu thư nhận khó so bì
Gãi đầu tóc bạc giờ thêm ngắn
Cứ giắt trâm rồi lại tuột đi.

Ảnh đại diện

Nam hành biệt đệ (Vi Thừa Khánh): Bản dịch của Đất Văn Lang

Sóng Trường Giang nhịp nhịp
Tình viễn khách lao xao
Hoa rụng cùng tâm sự
Về đất chẳng lời nào.

Ảnh đại diện

Ngọc đài thể kỳ 02 (Quyền Đức Dư): Bản dịch của Đất Văn Lang

Cô bé tròn trăng đẹp thẹn thùng
Chiều nay gặp mặt cuối đường chung
Khi nào đãi cưới? Nàng không nói
Trỏ mái nhà xanh rải cánh hồng

Trang trong tổng số 41 trang (406 bài trả lời)
Trang đầu« Trang trước‹ [1] [2] [3] [4] [5] [6] ... ›Trang sau »Trang cuối