Trang trong tổng số 3 trang (21 bài trả lời)
[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối

Ảnh đại diện

Thái Bình thành hạ văn xuy địch (Nguyễn Du): Chú giải địa danh:

- Phủ Thái Bình đời Thanh thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, địa giới tương đương thành phố cấp địa khu Sùng Tả (崇左市) của khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây hiện nay. Phủ thành Thái Bình đóng ở huyện lỵ Long Châu hiện nay.
- Ninh Minh 宁明 đời Thanh là cấp châu thuộc phủ Thái Bình, nay là cấp huyện, thuộc thành phố cấp địa khu Sùng Tả, giáp với tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam.

*Theo một tư liệu địa đồ về đường đi sứ TQ mà tôi có thì:
Châu Ninh Minh thời Tống gọi là trại Vĩnh Bình, thời Nguyên gọi là lộ Tư Minh, thời Minh đổi thành phủ, lấy tri phủ là thổ dân ở địa phương (tức theo chế độ thổ ty), đến đời Thanh đổi thành châu thuộc phủ Thái Bình.
Cửa Tây của châu thành có cột đồng cổ, nghe đâu là do Phục Ba (Mã Viện) dựng. Cửa Nam của châu thành có Giếng Thái tử, tức chỗ Thái tử nhà Nguyên là Thoát Hoan dẫn quân tới đóng trại và đào giếng đó, còn gọi là suối Mã Bào.

Ảnh đại diện

Sùng Sơn hướng Việt Thường thi (Thẩm Thuyên Kỳ): Khảo đính

Qua Hoan Châu xuôi dòng từ Tùng Lĩnh đến Việt Thường (Hà Tĩnh)

Khảo đính:
- Đối chiếu bản đồ địa hình thì Sùng Sơn là núi Tùng Lĩnh, “Sam Cốc độ” có lẽ là bến đò Tam Xoa ở ngã 3 nơi sông Ngàn Phố và Ngàn Sâu hợp dòng thành sông La. Kim dự là đảo giữa sông có lẽ là Bãi Soi giữa dòng sông La, trước mặt làng Đông Thái, thị trấn Đức Thọ.
- Việc Tùng viết thành Sùng, Tam viết thành Sam có thể nhiều lý do:
1- Vùng này ghi tên chỉ theo âm đọc.
2- Thẩm Thuyên Kỳ chỉ nghe đọc mà viết tên.
3- Đến lượt Lê Trắc khi ghi vào An Nam Chí Lược cũng chỉ chép theo âm đọc nhớ được...
- Địa danh Khe Tre (La Khê, Trúc Khê) có ở nhiều nơi. Cổ âm đọc hạ thành hè, xa thành xe, trà thành chè v.v. nên LA có thể dùng ghi âm T-LE tức là tre, cả tên sông Ngàn Phố có lẽ cũng là tre (Phố=Pheo=Tre).

====
Tham khảo bài Đại Hàm Sơn của Bùi Dương Lịch:
Địa mạch tòng trung khởi,
Sơn hình độc nghị nhiên.
Tủng thân như phó địch,
Súc khí dục xung thiên.
La - Phố Tam Xoa hợp,
Chương - Hương lưỡng dực triền.
Cao Hoàng bình bắc khấu,
Tằng thử phấn minh tiên.

Ảnh đại diện

Sùng Sơn hướng Việt Thường thi (Thẩm Thuyên Kỳ): Bản dịch của Lôi Bất Chấn

Sớm từ Tùng Lĩnh xuống
Chiều bắc Việt Thường qua
Tây đò Tam Cốc lại
“Khe trúc” thực sông La
Sông La hợp Minh thuỷ.
Tam Cốc núi cao hoà.
So le chừng chẳng hợp
Khuất khúc khó tìm ra
Lá quế vương khe đá
Gai giăng lối rườm rà
Một khung trời mù mịt
Mây hốc đá đùn ra
Tạo hoá công bày đặt
Chân tiên dạo gót hoa
Bước tới thêm cảnh lạ.
Lòng nhàn cảm bao la.


16/12/2018
Ảnh đại diện

Văn tế Bá Đa Lộc (viết hộ Đông cung Cảnh) (Đặng Đức Siêu): Bản dịch của Vài ý kiến tham đính

Do trong tay không có bản gốc chữ Nôm nên tại hạ chỉ suy luận dựa vào nghĩa lý câu chữ, cùng với văn cảnh và luật đối:

Lòng quy hoắc: Lòng quỳ hoắc
Ngâm ngời: ngâm ngợi
Khó khăn giặc quỷ: khó ngăn giặc quỷ
Lòng bề: Lòng bền
Cuối đầu: cúi đầu (đọc theo giọng Huế)
Long càng: lòng càng
Ngày sâu khác: ngày sáu khắc
Gối loa: gối loan
Cảm là cả: cảm là cảm
Ba tất: ba tấc (giọng Huế)
Vũ đực: vũ dực
Thuở trước huân đào: có lẽ là thuở nước huân đào vì chữ nôm nước và trước hơi giống nhau, nước đối với nhà ở câu trên mới chỉnh.

Ảnh đại diện

Xích Bích hoài cổ (Đỗ Mục): Sửa

Chữ toả 鎖 bị nhầm với chữ tiêu 銷, đề nghị sửa.

Ảnh đại diện

Giang thành tử - Biệt Từ Châu (Tô Thức): Góp ý phiên âm

Đề nghị sửa phiên âm là "Xuân túng tại" mới đúng.
Ngoài ra "dư như hứa" theo tại hạ nhớ đúng phải là "dư kỷ hử", chữ như 如 sửa thành chữ kỷ 几 (幾) thuận thanh điệu hơn. Chữ hứa ở nghĩa này thường đọc là hử.

Ảnh đại diện

Phá trận tử (Án Thù): Sửa phiên âm

Đề nghị sửa phiên âm khinh lý thành kính lý

Ảnh đại diện

Tuyệt mệnh thi (Nguyễn Hữu Huân): Sửa 1 chữ

Đề nghị admin sửa chữa thâu 偷 là "trộm cắp" thành chữ thâu 輸 là "thua"

Ngoài ra theo tại hạ nhớ thì bài này có một số câu hơi khác :
"Hãn mã gian quan báo quốc cừu
Chỉ nhân binh bại trí thân hưu.
Anh hùng mạc bả doanh thâu luận,
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu.
Đãn đắc tử kinh Hồ lỗ phách,
Bất cam sinh đoạn tướng quân đầu.
Đương niên Tho thuỷ ba lưu huyết,
Long đảo thu phong khởi mộ sầu"
Tiếc là tại hạ quên không nhớ đọc ở sách nào, hình như là ở cuốn Giáo trình Hán Nôm Đại học sư phạm ... Lê Trí Viễn chủ biên

Ảnh đại diện

Thất thập tự thọ (Nguyễn Công Trứ): Chỉnh phiên âm

Bản phiên âm theo tại hạ nhớ thì khác 5 chữ (viết hoa):
Nhật đối nhi TÀO tự giải di,
Kim ngô bất tự CỐ ngô thì.
Tuỳ cơ khối lỗi cung nhân tiếu,
Trực ký niên hoa giới cổ hy.
Lão thực bất kham trang diện mục,
Anh hoa AM dụng nhiễm tu tì.
Tự TÀM tiên liệt hào vô trạng,
Quái SÁT Hồng Sơn hữu thị phi.

Ảnh đại diện

Đăng cao (Đỗ Phủ): Bản dịch của Lôi Bất Chấn

Gió lộng tầng cao vượn hú sầu  
Vũng trong cát trắng lượn đàn âu
Ào ào lá đổ cành khô rụng
Cuồn cuộn Sông Dài nước chảy đâu
Muôn dặm trời thu sầu viễn khách
Một thân lão bệnh lại lên lầu
Gian nan khổ hận đầm sương tóc
Mệt mỏi đành ngưng chẳng dốc bầu

Trang trong tổng số 3 trang (21 bài trả lời)
[1] [2] [3] ›Trang sau »Trang cuối




Tìm bài trả lời thơ:

Kết quả tìm được thoả mãn đồng thời tất cả các tiêu chí bạn chọn.
Bạn có thể tìm bằng Google với giao diện đơn giản hơn.

Tiêu đề bài trả lời:

Nội dung:

Thể loại:

Người gửi:

Tiêu đề bài thơ:

Tác giả bài thơ: