Trang trong tổng số 2 trang (11 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối
Gửi bởi hang-nga ngày 27/11/2011 05:44
衰柳- là liễu cỗi, liễu gầy. Chữ 衰 còn thể hiện ý của tác giả muốn ám chỉ thời đại suy tàn. Nên chăng khi dịch thơ ta không nên dùng chữ " già" mà nên thay bằng chữ khác cho sát với nguyên tác hơn.
Gửi bởi hang-nga ngày 27/11/2011 03:40
昨夜 - đêm trước. Có lẽ các bản dịch thơ nên thay từ " Hôm trước" ở câu thơ cuối bằng từ " đêm trước" để bản dịch gần với nguyên tác hơn chăng?
Gửi bởi hang-nga ngày 03/11/2011 09:29
Đề tài cung nữ là đề tài vô cùng quen thuộc của thơ Đường. Viết về người cung nữ các nhà thơ đời Đường đã thể hiện tấm long nhân đạo rất đáng trân trọng. Họ lên tiếng bênh vực quyền được sống, quyền được hưởng hạnh phúc của những cô gái trẻ phải chôn vùi cuộc đời của mình trong cung cấm. Bài thơ Tây cung thu oán của Vương Xương Linh cũng nằm trong dòng mạch ấy.
Người cung nữ trong bài thơ thật sắc nước hương trời:
芙蓉不及美人妝,
水殿風來珠翠香。
(Hoa sen không bằng vẻ điểm trang của người đẹp,
Từ thuỷ điện, gió đưa lại mùi thơm ngọc ngà.)
Tác giả đã dựng lên một cảnh huống người con gái đẹp trong một đêm trăng thu ngát hương, thật nhiều xao xuyến. Đêm thu là đêm người ta dễ cảm thấy cô đơn và trống vắng nhất. Vậy mà:
誰分含啼掩秋扇,
空懸明月待君王。
(Oán giận phải ôm tình riêng nên che chiếc quạt thu,
Cứ treo mãi vầng trăng tỏ để đợi nhà vua.)
Người con gái trẻ đẹp ấy ôm tình riêng ở trong lòng đến mức phải oán hận, bởi có lẽ từ rất rất lâu rồi cô chưa một lần được hưởng ân sủng của Vua, nhưng cô vẫn treo mãi vầng trăng vằng vặc để chờ đợi. Từ cảnh huống của cô cung nữa kia ta chợt nhận ra rằng: dù oán hận, dù mỏi mòn trong chờ đợi, những người cung nữ vẫn nuôi hy vọng, vẫn trông chờ vào một lần được đức vua ân sủng. Chính niềm hy vọng ấy giúp họ sống trong cung cho đến lúc phôi pha cả nhan sắc, đến lúc không còn những điều kiện cần thiết để được hưởng những hạnh phúc trần tục của người thường. Đến đây người đọc đốn ngộ ra một chân lý: phàm đã là người thì ai cũng nuôi hy vọng kể cả trong những cảnh huống tuyệt vọng như của người cung nữ trong đêm thu sầu oán kia.
Bên cạnh chân lý mà người đọc vừa đốn ngộ, bài thơ còn mang lại niềm thương cảm sâu sắc cho những người con gái sinh ra được trời phú cho nhan sắc đẹp tươi nhưng lại không ban cho cuộc sống hạnh phúc. Người đọc lại thêm một lần nữa nhận ra cái qui luật khắc nghiệt của cuộc đời: “Hồng nhan bạc phận”. Bài thơ hay ở chỗ bên cạnh những triết lý nhân sinh sâu sắc ta còn cảm nhận được tấm lòng cảm thông sâu sắc của nhà thơ với những cảnh huống ngặt nghèo trong cuộc đời.
Gửi bởi hang-nga ngày 03/11/2011 09:26
“ Chiến tranh” là một đề tài rất phổ biến trong thơ Đường. Viết về chiến tranh đã có biết bao vần thơ cảm động khiến người đọc phải rơi lệ. Bài thơ “ Tái hạ khúc” là một bài thơ như thế:
Ở câu đề và câu thực tác giả kể lại trận đánh Tang Càn
夜戰桑乾北,
秦兵半不歸
“ Dạ chiến Tang Càng Bắc
Tần Binh bán bất qui”
Những chiến binh nhà Tần đi chinh chiến ở phương Bắc sau một trận đánh một nửa đã không thể trở về quê hương được nữa. Tức là một nửa Tần binh đã chết trong trận đánh đó. Đau thương biết bao. Nhưng trớ trêu thay ở hai câu luận và kết tác giả lại đưa ra một tình huống thật đối lập:
朝來有鄉信,
猶自寄寒衣。
“Triêu lai hữu hương tin
Do tự kí hàn y”
Người đã không còn, vậy mà áo rét và thư nhà vẫn đề huề đưa tới. Những người mẹ , người vợ ở quê xa vẫn đinh ninh người thân yêu của mình sẽ mặc áo ấm, đọc thư nhà để yên tâm chiến đấu kiếm ấn phong hầu. Tình huống đối lập ở đây làm tăng lên gấp bội sự đau đớn và chua xót trước những mất mát của chiến tranh. Có thể nói rằng thong qua cảnh huống đối lập này tiếng nói phản đối chiến tranh lại càng trở nên sâu sắc và cấp thiết với muôn người.
Tóm lại bài thơ được cấu tứ theo lối quan hệ đồng nhất các mặt đối lập: đồng nhất giữa cái sống và cái chết .Cái chết của một nửa Tần binh trong trận Tang Càng đối lập với áo lạnh và thư nhà sang hôm sau gửi tới. Sự thống nhất giữa hai cảnh huống đối lập ấy đã tạo nên sự xúc động vô cùng cho người đọc khi chứng kiến sự thực khác nghiệt của chiến tranh.
Gửi bởi hang-nga ngày 03/11/2011 09:23
Đây là một bài thơ ngũ ngôn cổ phong rất xinh xắn của Lý Bạch. Hình ảnh thơ rất trong sáng, đẹp đẽ và dân dã. Hai câu đầu hình ảnh cô gái La Phu đang hái dâu bên bờ nước xanh hiện lên thật quyến rũ:
秦地羅敷女,
採桑綠水邊。
Tần địa La Phu nữ,
Thái tang lục thuỷ biên.
( Người con giá La Phu đất Tần
Hái dâu bên dòng nước xanh)
Cô gái La Phu đang lao động trong khung cảnh thật thanh bình. Nhà thơ đã tạo ra một không gian xanh biếc của dâu, của nước. Lòng người thật nhẹ nhõm khi đứng trước bức tranh tuyệt đẹp đó.
Hai câu tiếp theo:
素手青條上,
紅妝白日鮮。
Tố thủ thanh điều thượng,
Hồng trang bạch nhật tiên.
Bàn tay trắng ngần vịn vào nhành cây xanh
Ánh nắng mặt trời chiếu trên bộ đồ đỏ mới tinh
Những sắc màu được kết hợp với nhau tuyệt đẹp: màu xanh của cành dâu, màu trắng muốt của cánh tay thiếu nữ, ánh nắng của mặt trời tươi sáng tô thắm thêm bộ đò đỏ mới tinh. Thông qua hình ảnh cô gái trẻ hái dâu nhà thơ ca ngợi cuộc sống thái bình thịnh trị khi người nông dân được sống lao động yên bình. Hai câu kết thật ý nhị:
蠶饑妾欲去,
五馬莫留連。
Tàm cơ thiếp dục khứ,
Ngũ mã mạc lưu liên.
Tằm đói rồi thiếp phải chạy về nhà
Xin ngài (người đi xe năm ngựa kéo) đừng ở lại lâu.
Khách đa tình thấy ngất ngây, say đắm trước vẻ đẹp tự nhiên, mơn mởn, chất phác của cô gái. Thiếu nữ nửa như mời mọc, nửa từ chối một cách khéo léo : thôi thiếp phải về nhà kẻo tằm bị đói, chàng có muốn theo không? Mà thôi , chàng là người cao sang quyền quí chẳng nên dây dưa ở đây mà làm gì. Thiếp thân phận thấp hèn, chẳng qua chỉ là bông hoa bên đường, nếu chàng không thật tình thì chỉ làm thiếp khổ vì vấn vương mà thôi.
Như vậy cách cấu tứ của bài thơ là dùng mặt nọ để nói mặt kia : dùng hình ảnh cô gái hái dâu xinh đẹp để miêu tả quang cảnh thanh bình thịnh trị. Dùng sự vội vàng của gái vì lo tằm đói để thể hiện tâm trạng phân vân của cô gái trước sự say đắm của chàng trai. Cách cấu tứ ấy khiến cho bài thơ thật hàm súc và đa nghĩa.
Gửi bởi hang-nga ngày 16/10/2011 06:02
Giũ bao nhiêu bụi bụi lầm
愈 包 橈 培 培 啉
Giơ tay áo đến tùng lâm
捈 拪 襖 旦 松 林
Rừng nhiều cây rợp hoa chảy động
棱 堯 核 苙 花 仕 洞
Đường ít người đi cỏ kíp xâm
唐 乊圡 多 苦 及 侵
Thơ đới tục hiềm câu đới tục
詩 帶俗 嫌 句 帶 俗
Chủ vô tâm ấy khách vô tâm
主無心 衣 客 無 心
Trúc thông hiên vắng trong khi ấy
竹 松 軒 永 工 欺 衣
Năng mỗ sơn tăng làm bạn ngâm
能 某山 僧 濫 伴 吟
Gửi bởi hang-nga ngày 16/10/2011 05:00
Am trúc hiên mai ngày tháng qua
庵 竹軒 枚 勜 斘 戈
Thị phi nào đến cõi yên hà
是 非儍 旦 憥 安 河
Bữa ăn dầu có dưa muối
嶎 吿 油 固 瓜 諎
Áo mặc nài chi gấm là
襖 忬呢 之 錦 纙
Nước dưỡng cho thanh trì thưởng nguyệt
搩 養朱 清 池 賞 月
Đất cày ngõ ải luống ương hoa
坦 崘午 矮 妸 央 花
Trong khi hứng động vừa đêm tuyết
工 欺興 動 皮 挒 雪
Ngâm được câu thần dắng dắng ca.
特 吟 句 神 凙 凙 歌
Gửi bởi hang-nga ngày 13/10/2011 11:08
Lểu thểu chưa nên tiết trượng phu
疗 少 渚 年 血 丈夫
Miễn là phỏng dạng đạo tiên nho
免 罗 倣 羕 道 仙 儒
Chè mai đêm nguyệt dậy xem bóng
茶 枚 胋 月 曳 占 俸
Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu
片 柵 勜 春 坐 枕 拘
Dưới công danh đeo khổ nhục
儛 工名 刀 苦 肉
Trong dại dột có phong lưu
冲 呆突 固 丰 流
Mấy người bạn cũ thi đỗ
氽 圡伴 寠 詩 杜
Lá ngô đồng thủa mạt thu .
蘿 吳仝 輸 * 末 秋
Gửi bởi hang-nga ngày 13/10/2011 10:24
Bài 2身 閒
Thương chu bạn cũ các chư đôi
商 朱 伴 屢 各 諸 堆
Sá lánh thân nhàn thủa việc rồi
舍 另 身 閑 輸 役 耒
Cởi tục trà thường pha nước tuyết
桧 俗 茶 嫦 玻 渃 雪
Tầm thanh trong vắt tiễn chè mai
寻 清 冲 沕 箭 茶 枚
Chim kêu hoa nở ngày xuân tạnh
鳥 叭 花 汝 碍 春 情
Hương lọn cờ tàn tiệc khách thôi
香 論 碁 伞 席 客 崔
Bui có một niềm chăng nỡ trễ
盃 固 沒 念 庄 女 礼
Gửi bởi hang-nga ngày 13/10/2011 10:07
Góc thành Nam lều một gian.
谷 城南 寮 沒 間
No nước uống thiếu cơm ăn
奴 渃 俧 少 粓 咹
Con đòi trốn dường ai quyến
昆 隊遁 羕 哀 眷
Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn
堏 馭 掑 少 几 搷
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá.
泑 罢 狹 徊 坤 且 个
Nhà quen thú thứa ngại nuôi vằn
茹 悁 趣 次 碍 餒 彣
TRiều quan chẳng phải ẩn chẳng phải
朝 官庄 沛 隐 庄 沛
Góc thành nam lều một gian
谷 城南 寮 沒 間
Trang trong tổng số 2 trang (11 bài trả lời)
[1] [2] ›Trang sau »Trang cuối