24/11/2024 19:54Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới
Đăng bởi Vanachi vào 05/09/2017 22:19
Trong bài “Bình Ngô đại cáo (BNĐC): một số vấn đề về văn bản” (1) chúng tôi đã trình bày và chứng minh hai luận điểm quan trọng:
Việc “nhân nghĩa” cốt ở yên dân, quân “điếu phạt” không gì bằng trừ bạo.Với tính chất minh hoạ cho quyển “sử luợc” dùng để dạy đối tượng “sơ học”, dịch như vậy là đủ.
Nước Đại Việt ta, thật là một nước văn hiến; kể từ Triệu, Đinh, Lý, Trần mấy đời gây dựng ra nước; so với Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi đàng làm đế một phương.
Mới rồi, chỉ vì họ Hồ cơ cầu; đến nỗi lòng người ta oán nhà Minh nhân dịp hở, thừa thế hại dân; lũ ác rắp mưu gian, đem lòng bán nước. Kiếm cách lừa dối thiên hạ kể nghìn muôn lối gớm ghê; gẫm từ gây việc binh đao đã hai mươi năm tai vạ. Nhân nghĩa vứt đi hết, thế giới đến thế thì thôi! Thuế má vét cho nhiều, núi sông chẳng còn gì cả! Thần nhân đều lấy làm giận, trời đất cũng không thể dung!
Ta đây, phát tích từ núi Lam-sơn, ẩn thân ở chỗ hoang dã. Đau lòng nát ruột, chốc đà mười mấy năm trời, ngậm đắng nuốt cay, nào phải một ngày nay đó! Đương khi cờ nghĩa mới nổi, chính lúc thế giặc vẫn hăng. Lương chứa Linh - sơn, mấy tuần đã cạn, quân tan Côi - huyện một đứa chẳng còn. Tụ tập mấy lũ lưu dân vác cần câu mà đánh giặc, gắn bó một lòng phụ tử, rót rượu ngọt để khao quân.
Thành ra: Vì đại nghĩa mà thắng được hung tàn, lấy chí nhân mà thay cho cường bạo, kẻ kia bó tay mà ngồi chịu chết; quân ta không đánh mà giặc phải tan. Bọn tướng giặc đã bị bắt rồi, van lạy xin thương làm phúc; bụng hiếu sinh ta cũng mở rộng, thần vũ chẳng giết làm gì. Kìa Tham tướng Phương Chính, kìa Nội quân Mã Kỳ, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, lúc qua sông mà hãy còn mất vía; nọ Tổng binh Vương Thông, nọ Tham chính Mã ánh, cấp cho mấy nghìn con ngựa, khi về nước mà vẫn còn giật mình. Họ đã sợ chết tham sống mà xin cùng ta giảng hoà: ta lấy toàn quân là hơn mà muốn cùng dân yên nghỉ.
Cho hay:
Ba quân đã đến ngày đại định, kỷ niệm công vô địch về sau.
Bốn bể gây nên cuộc thái bình bá cáo lời duy tân từ đó!
...Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân+ Bản Bùi Hạnh Cẩn dịch (6):
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trải Đinh, Lê, Lý, Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Mà hào kiệt không đời nào thiếu...
...Lấy đại nghĩa thắng hung tàn- Thứ hai, hệ thống văn bản gọi là của Bùi Kỷ hoặc dựa vào bản gọi là của Bùi Kỷ để dịch và hiệu đính lại..., đã được đưa vào sách giáo khoa chính thức giảng dạy trong nhà trường từ trước đến nay. Bởi vậy, rất nhiều thế hệ thầy cô giáo và học trò thuộc lòng. Vả chăng, loại văn bản này do âm vang hùng tráng, lại đúng với lối văn tứ lục, nên chỉ cần qua một lượt là đã thuộc lòng ngay. Mà các dịch giả sau này đều qua sự đào tạo của nhà trường thì dù muốn hay không khi dịch lại BNĐC, âm hưởng của bản dịch kia từ trong tiềm thức xa xôi thuở cắp sách tới trường trỗi dậy, len lỏi một cách vô thức vào bản dịch mới. Hai đoạn trích trên kia là những minh chứng. Từ đó, ta thấy vị trí của bản dịch mà lâu nay ta vẫn cho là do Bùi Kỷ dịch có vị trí vô cùng quan trọng. Nhưng rồi một câu hỏi được đặt ra: Liệu bài dịch này có phải là của Bùi Kỷ không? Câu hỏi nghe ra có vẻ giật gân và bất kính. Nhưng khoa học là khoa học. Hơn nữa, sự nhầm lẫn trong khoa học là chuyện không có gì lạ và cũng thường hay xẩy ra. Chỉ có điều, nếu chưa biết thì thôi, còn nếu biết rồi thì không thể không đính chính. Do đó, ta hãy kiểm tra lại hệ thống tư liệu.
Đem chí nhân thay cường bạo
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh lừng lẫy...
Tượng mảng:Xin hãy đối chiếu bài này với bài mà lâu nay ta vẫn gọi là bản Bùi Kỷ xem chúng có gì khác nhau? Rõ ràng, hai bài giống hệt nhau từng dấu chấm dấu phẩy. Thế thì tại sao đang từ Trần Trọng Kim lại bị biến thành Bùi Kỷ?
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nên độc lập, cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Oa nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa - Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích đủ có minh trưng (8).
Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán bạn. Quân cuồng Minh đã thừa tứ ngược (9), bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khoé, ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa nát cả càn khôn, nặng khoa liễm (10) vét không sơn trạch: Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu. Nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim chả. Tàn hại côn trùng thảo mộc, nheo hóc thay! quan quả điên liên (11). Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà mai đắp đất, chưn tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Độc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội, dơ bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được.
Từ đây:
Núi Lam-sơn dấy nghĩa, chốn hoang giã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, chết cùng quân nghịch tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa, nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Đòi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông (12), mấy thuở đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả (13). Thế mà trông người người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương (14), thế mà tự ta ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch (15) Phần thì giận hung đồ ngang dọc, phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Kinh-sơn lương hết mấy tuần, khi Khôi-huyện quân không một đội. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt phải trải qua bách chiết thiên ma, cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phấp phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi, quân giặc nhiều ta ít mà được luôn.
Dọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ - Đằng sấm vang sét dậy, miền Trà Lân trúc phá tro bay. Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan, Phương Chính, Quí An tìm đường trốn tránh. Đánh Tây - kinh phá tan thế giặc, lấy Đông-đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông, bến Tuỵ-động xác đầy ngoài nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng, Lý Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lường, Mã Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao, ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui, ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người, tham công một thời, chẳng bõ bày trò dở duốc. Đến một đứa trẻ ranh như Tuyên-đức, nhàm võ không thôi, lại sai đồ dút dát như Thành, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm Đinh Mùi tháng chín Liễu Thăng từ Khâu-ôn tiến sang, Mộc Thãnh từ Vân-nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân, ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng, hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên. Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong, hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn. Lưỡi đao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vi thành, hẹn đến rằm tháng mười duyệt tặc. Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm đã mài, đá núi cũng mòn, voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ, Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng-giang, Lạng-sơn thây chất đầy đường, Xương-giang, Bình-than máu trôi đỏ nước. Ghê gớm thay! sắc phong vân cũng đổi, thảm đạm thay! sáng nhật nguyệt phải mờ. Binh Vân-nam nghẽn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật, quân Mộc Thãnh tan chưng Thăng-trạm chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh-cân nước sóng rền rĩ, thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy, các thành cùng khấu, cổi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội, thể lòng trời bất sát, ta mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho giăm trăm chiếc thuyền, ra bến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu hoà, ngỏ lòng thú phục, ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.
Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang san từ đây mở mặt, xã tắc từ đây vững nền. Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chắc chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tôn khôn thiêng che chở giúp đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy vùng một mảnh nhung y, nên công đại định, phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh. Bá cáo xa gần, ngỏ cùng nghe biết.
In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Trãi » Bình Ngô đại cáo » Bình Ngô đại cáo: Vấn đề dịch giả và dịch bản