22/11/2024 14:08Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Soạn bài “Vịnh khoa thi hương” của Trần Tế Xương

Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (1897)

Đăng bởi hảo liễu vào 29/04/2017 11:39

 

Câu 1: Hai câu đầu cho thấy kì thi có gì khác thường? Chú ý phân tích kĩ từ “lẫn” và tác dụng của nó trong việc biểu đạt nội dung của bài thơ?

Gợi ý trả lời:

– Hai câu thơ đầu giới thiệu hoàn cảnh của khoa thi và cho thấy sự xáo trộn của trường thi:
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Câu thơ đầu thông báo một lệ thường, dưới thời phong kiến, cứ ba năm có một khoa thi Hương. Điều đó không có gì đặc biệt, song câu thơ thứ hai không chỉ mang tính chất là lời giới thiệu cụ thể khoa thi ấy nữa mà là sự thông báo về những thay đổi trong tổ chức thi cử. Giọng điệu hài hước thể hiện khá rõ ngay trong hai câu thơ đầu. Đôi câu thơ như một thông báo. Khoa thi này do nhà nước tổ chức, cứ ba năm một lần thi Hương để chọn nhân tài. Bề ngoài thì bình thường: Một kì thi theo đúng thời gian thông lệ: Ba năm một lần. Nhưng nó báo hiệu một cái gì khác trước. Đó là thực chất của kì thi này là không bình thường: Trường Nam thi lẫn trường Hà. Người tổ chức không phải là triều đình mà là “nhà nước”.

– Cách dùng từ “lẫn” ngụ ý mỉa mai, khẳng định một sự thay đổi trong chế độ thực dân cũ, dự báo một sự ô hợp, nhốn nháo trong việc thi cử. Một từ “lẫn” không chỉ giới thiệu hai trường Nam Định và Hà Nội thi chung mà báo hiệu một sự xáo trộn của việc thi cử, không còn được như trước nữa. Có nhiều hàm ý trong từ “lẫn” này. Đó là thời kì thực dân Pháp đã dần xâm chiếm lập ra một chế độ thi cử khác, tạp nham lẫn lộn với lệ thường của kì thi trước đây.

Câu 2: Anh (chị) có nhận xét gì về hình ảnh sĩ tử và quan trường? Từ hai câu thơ thứ 3 và thứ tư, anh (chị) có cảm nhận như thế nào về cảnh thi cử lúc bấy giờ?

Gợi ý trả lời:

– Hai câu thơ tiếp theo miêu tả thật hài hước cảnh trường thi nhộn nhạo với những nhân vật chính là sĩ tử và quan chủ khảo trường thi:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
– Bằng biện pháp đảo trật tự cú pháp: “Lôi thôi sĩ tử”, “ậm oẹ quan trường” kết hợp với các từ giàu hình ảnh: “lôi thôi”, “đeo lọ” cùng với những từ chỉ âm thanh: “ậm oẹ”, “thét”, nhà thơ đã tái hiện lại quang cảnh trường thi trở nên nhốn nháo, ô hợp, mất đi vẻ trang nghiêm của một kì thi do quốc gia tổ chức. Nghệ thuật đảo ngữ đặt các từ láy là tính từ lên đầu câu vừa gây ấn tượng về hình thức vừa gây ấn tượng khái quát hình ảnh thi cử của các sĩ tử khoa thi Đinh Dậu. Hơn thế, sĩ tử thì lôi thôi lếch thếch mất hết vẻ nho nhã, thư sinh. Quan chủ khảo trường thi không còn quyền uy, mực thước, trang trọng như trước mà như nhân vật tuồng hề “ậm oẹ, thét loa”. Hình ảnh quan trường hiện ra là kẻ chỉ biết ra oai, nạt nộ, nhưng giả dối, không có thực lực. Người chịu trách nhiệm tổ chức kì thi và sĩ tử đi thi thật không ra thế nào. Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho. Cảnh tượng đó phản ánh đúng sự nhốn nháo, pha tạp, thiếu vẻ trang nghiêm của một kì thi không nghiêm túc, dự báo trước sẽ không hiệu quả.

Câu 3: Phân tích hình ảnh quan sứ, bà đầm và sức mạnh châm biếm, đả kích của biện pháp nghệ thuật đối ở hau câu 5,6.

Gợi ý trả lời:

Trong câu thơ thứ năm và thứ sáu có sự xuất hiện của hình ảnh “rất tây”, đó là bà đầm. Hình ảnh cờ rợp trời khẳng định quy mô của cuộc thi là quy mô lớn, được tổ chức linh đình. Sự có mặt của vợ chồng quan sứ đáng lẽ sẽ làm cho quang cảnh trường thi trang nghiêm hơn. Tuy nhiên, hình ảnh những vị sứ giả ấy lại là hình ảnh quan sứ và mụ đầm đầy vẻ phô trương, hình thức, không đúng lễ nghi của một kì thi. Nhưng trái lại, sự hiện diện của chính quyền thực dân lúc này càng tăng thêm sự chua chát. Tất cả báo hiệu một sự sa sút về chất lượng thi cử như điều tất yếu của xã hội thực dân nửa phong kiến. Quyết định số phận của của các sĩ tử là một kẻ ngoại bang không biết gì về Nho học. Nơi cửa Khổng sân Trình là nơi mặc sức, tự nhiên lê váy của mụ đầm. “Váy lê quét đất” đối với “Lọng cắm rợp trời” là hình ảnh tái hiện thực trạng thực dân Pháp đang hạ nhục quốc thể ta và tìm cách lấn át văn hoá của ta. So với bài thơ khác có câu: “Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt – Dưới sân ông cử ngẩng đầu rồng” thì ta có thể thấy được điểm tương đồng rất lớn. Bốn câu thơ vạch trần sự nhếch nhác, tuỳ tiện của khoa cử lúc bấy giờ. Đồng thời ngầm thể hiện nỗi xót xa chua chát của nhà thơ và người đọc.

Câu 4: Phân tích tâm trạng, thái độ của tác giả trước cảnh tượng trường thi. Lời gọi của Tú Xương ở hai câu thơ cuối có ý nghĩa tư tưởng gì?

Gợi ý trả lời:

– Hai câu kết bài thơ là một câu hỏi tu từ. Nhà thơ hỏi “nhân tài đất Bắc” cũng chính là hỏi những người thuộc tầng lớp trí thức. Đó là những sĩ tử đang chăm chăm chạy theo danh vọng. Ông hỏi mà thực chất là để thức tỉnh họ về nỗi nhục mất nước, phải thi ở một trường thi tạp nham, nực cười. Kẻ thù ngoại bang nếu vẫn có mặt ở lễ xướng danh này thì dẫu có đậu tiến sĩ ra làm quan cũng là thân phận tay sai mà thôi. Đường công danh chẳn còn có ý nghĩa gì trong thực trạng nước nhà đang nguy khốn. Hai tiếng “ngoảnh cổ” bộc lộ thái độ vừa mạnh mẽ vừa thể hiện một nỗi tủi nhục ê chề.

– Lời gọi hỏi của nhà thơ hỏi người cũng chính là hỏi mình. Giọng thơ dù đay nghiến mà vẫn có cái gì xa xót đến rưng rưng. Cảnh trường thi nhốn nháo, nhố nhăng làm bật lên tiếng cười chua chát về tình cảnh đất nước mất chủ quyền. Đây cũng là mâu thuẫn nội tại lúc bấy giờ không thể điều hoà được giữa kẻ sĩ muốn thi thố tài năng với đời với thực tế phi nghĩa của khoa cử học vấn.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Trần Tế Xương » Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (1897) » Soạn bài “Vịnh khoa thi hương” của Trần Tế Xương