23/11/2024 06:06Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Bình giảng khổ thơ 2,3,4 trong bài thơ Đất nước

Đất nước

Đăng bởi Minh Trúc vào 28/05/2014 23:53

 

Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
Mùa thu nay khác rồi!
.....
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Bài làm

Bài thơ Đất nước được hình thành trong cả một quãng thời gian dài (1948-1955). Lần đầu tiên được đưa vào tập Chiến sĩ (1956). Bài thơ được tổ hợp từ một số bài thơ khác như Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và Đêm mít tinh (1949). Đây là bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Đình Thi nói riêng của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ mang rõ phong cách Nguyễn Đình Thi. Chủ đề bao trùm của Đất nước là lòng yêu nước nồng nàn, thiết, tha, ý thức độc lập tự chủ, là lòng tự hào về đất nước và nhân dân anh hùng, từ trong đau thương nô lệ, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã quật khởi vùng lên chiến thắng huy hoàng. Trong đó có những đoạn thơ đó là Tổ quốc hồi sinh tràn đầy, sức sống, ý thức độc lập tự chủ và niềm tự hào về Tổ quốc giàu đẹp, có truyền thống bất khuất kiên cường:
Mùa thu nay khác rồi!
....
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Sau khi hồi tưởng đến mùa thu của những ngày rời Hà Nội ra đi vì nghĩa lớn với cảm xúc “Buồn buồn lặng lặng” (Hoài Thanh), tác giả bộc lộ cảm nghĩ của mình về mùa thu mới, mùa thu trên đất nước nhân dân đã làm chủ vận mệnh của mình, mùa thu kháng chiến ở núi rừng Việt Bắc: “Mùa thu nay khác rồi”. Lời thơ đầy tính chất khẳng định. Đó là sự khác rồi về không gian, thời gian và tâm trạng con người trước mùa thu. Nhưng cái khác trước hết của mùa thu này được người đọc nhận ra ngay ở nhịp điệu, tiết tấu, hình ảnh thơ: từ những câu thơ thất ngôn sâu lắng, cổ kính mang đậm màu sắc Đường thi, bài thơ bỗng chuyển sang những câu thơ tự do, tạo nên một nhịp điệu hối hả phơi phới làm cho đoạn thơ như hát vang lên từ một trái tim chất chứa niềm vui.

Đứng giữa không gian bao la, giữa đất trời bát ngát thoáng đãng, với trái tim reo vui, tác giả đã lắng nghe, cảm nhận sắc thu, hồn thu mới “Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi”. “Vui nghe” chứ không phải là nghe vui. Nghe vui là niềm vui từ bên ngoài còn vui nghe là niềm vui từ trái tim trỗi dậy, dâng lên, lan toả, nhuốm lên tất cả cảnh vật, đất trời, cỏ cây mây nước “Gió thổi rừng tre phấp phới”. “Phấp phới” là một từ láy rất gợi hình, gợi cảm và giàu ý nghĩa diễn tả. Phấp phới rừng tre gió thổi hay phấp phới của lá cờ đỏ tung bay giũa chiến khu tự do hay còn gợi cho ta niềm vui phơi phới của con người đang bay lên cùng với đất trời giải phóng?

Trong niềm vui lâng lâng ấy, nhà thơ đã cảm nghe được sự chuyển đổi rất mực tinh tế của hồn thu:
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Nhờ sử dụng biện pháp nhân hoá đặc sắc, nhà thơ không chỉ diễn tả được sự thay đổi của sắc thu mà còn diễn tả được sự thay đổi của lòng người, hồn người. Qua câu thơ của Nguyễn Đình Thi, dường như mùa thu đất nước đã được hồi sinh và hiện lên như một cô gái đầy sức trẻ, trẻ cả hình sắc, trẻ cả tâm hồn. “Trong biếc nói cười thiết tha”. Câu thơ có 6 chữ mà dồn nén biết bao nhiêu cảm xúc và ấn tượng: âm thanh thì “nói cười” tươi trẻ, màu sắc thì “trong biếc”, tình cảm thì “thiết tha”. Nhớ lại cảnh mùa thu cũ hiện về như thiếu nữ “đứng chịu tang. Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” với “áo mơ phai dệt lá vàng” còn thu nay đã được thay bằng chiếc áo màu tươi sáng, bình dị, ta càng thấm thía thu từ đây “không thu thảm thu sầu” mà là “thu sướng nhuộm màu xuân mát mát”:
Mùa thu vàng sáng tới rồi đây
Áo mới em phơi gió thổi đầy
Áo trắng đôi tà phơ phất hoá
Áo vàng em mặc cánh thu bay
(Xuân Diệu)
Đoạn thơ trên được tác giả sử dụng nhiều động từ “đứng, nghe, gió thổi, thay áo, nói, cười” đã gợi được không khí nhộn nhịp sôi nổi rộn ràng của mùa thu, Cảnh sắc thiên nhiên ở đây vừa bình dị khoẻ khoắn, vừa trong trẻo tươi sáng hoà hợp với tâm trạng vui hồ hởi của thi nhân tạo nên một vẻ đẹp mới cho mùa thu đất nước. Nguyễn Đình Thi đã đưa đến một nét mới cho những bài thơ về mùa thu Việt Nam muôn đời.

Đứng trước khung cảnh mùa thu đất nước như đang hồi sinh, trào dâng sức sống, niềm vui, với tình yêu thương nồng thắm, tác giả đã bộc lộ ý thức độc lập, tự chủ và niềm tự hào về Tổ quốc giàu đẹp. Thông qua tình cảm nồng thắm yêu thương và chói đỏ tự hào của tác giả, bức tranh đất nước cứ lần lượt được mở ra với không gian ba chiều bát ngát và hiện lên với những đường nét, màu sắc, hình khối và cả hương vị nữa, thật nên thơ, nên hoạ. Ngẩng đầu lên là bầu trời “thu xanh ngắt mấy từng cao”. Dường như không nén nổi cảm xúc, tác giả phải reo lên “Trời xanh đây là của chúng ta”. Trời ta xanh mắt ai mà chẳng thấy, vốn rất xanh từ cái thuở xa xưa. Bầu trời ấy qua thơ ca của Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà... đã cao xanh, giờ đây càng trở nên xanh cao hơn nữa. Vì trong sắc xanh muôn thuở của bầu trời, này có thêm sắc xanh của lòng người được hưởng độc lập, tự do. Đúng như Chế Lan Viên đã viết:
Xanh biết mấy là trời xanh Tổ quốc
Khi tự do về chói ở trên đầu
Trời thu xanh ngắt sáng tuyên ngôn
Trời bỗng xanh hơn nắng chói loà
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
(Tố Hữu)
Nhìn sang bên kia là những dãy núi, những cánh rừng trùng trùng điệp điệp “Núi rừng đây là của chúng ta”. Hai chữ “núi rừng” không hề gợi lên cảnh ma thiêng nước độc mà chỉ gợi lên sự giàu có của Tổ quốc, ẩn chứa biết bao tài nguyên phong phú “Rừng vàng bể bạc đất phì nhiêu”. Nhớ lại cảnh quê hương làng xóm trong máu lửa chiến tranh, bầu trời cánh đồng như ứa máu, rách nát bởi dây thép gai, móng vuốt của kẻ thù “Ôi những cánh đồng quê chảy máu – Dây thép gai đâm nát trời chiều!” chúng ta mới thấm thía cái vang hưởng của lòng tự hào, niềm kiêu hãnh và ý thức độc lập tự chủ toát ra từ hai câu thơ:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đầy là của chúng ta
Những câu thơ khẳng định, những đại từ chỉ định “đây” cùng với điệp từ ngữ “của chúng ta” đã vang lên dõng dạc niềm tự hào kiêu hãnh về quyền làm chủ đất nước. Cảm hứng này là một cảm hứng mà ta thường gặp trong thơ ca Việt Nam sau ngày giải phóng:
Của ta trời đất, đêm ngày
Núi kia đồng nọ, sông này của ta
(Tố Hữu)
Những câu thơ “Tôi nhớ lại; Tôi đứng vui nghe” là những lời độc thoại của nhân vật trữ tình. Sau lời độc thoại, đến đây dường như nhà thơ hát chung với dàn đồng ca của nhân dân, hoà trong cảm hứng vui sướng, tự hào được làm chủ đất trời thiên nhiên Tổ quốc tươi đẹp:
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Bằng hàng loạt từ “những” một từ chỉ số nhiều không xác định mở đầu các đòng thơ, trước hết tác giả như muốn kể thêm nhiều hơn vẻ giàu đẹp của đất nước, sau nữa đoạn thơ gợi cho người đọc bức tranh đất nước cứ lần lượt được mở ra lộng lẫy, bát ngát. Nguyễn Đình Thi sử dụng nhiều tính từ chỉ cảm xúc “thơm mát, bát ngát, đỏ nặng”. Điều đó vừa diễn tả được tình cảm yêu nước thiết tha, nồng nàn của tác giả vừa làm cho bức tranh đất nước như có thêm đường nét, màu sắc, hình khối. Với tấm lòng yêu nước thiết tha sâu nặng, dường như tác giả cảm nhận được cả cái vị “thơm mát” của cánh đồng, tận mắt thấy được cái “bát ngát” tự do của những ngả đường mở ra, như trông thấy được cả những dòng sông đỏ nặng phù sa cuộn chảy về xuôi. Câu thơ của Nguyễn Đình Thi thật trĩu nặng suy tư. “Những dòng sông đỏ nặng phù sa” hay đỏ nặng tấm lòng yêu thương và tự hào đối với đất nước của tác giả? Ở đây nhà thơ sử dụng nhiều nguyên âm mở “a, at” cuối dòng thơ cùng đã góp phần diễn tả thành công cái cảm xúc thơ nói trên (Từ cuộc sống có phần tù túng trong năm cửa ô, các văn nghệ sĩ mang ba lô hành hương lên đất thánh Việt Bắc. Qua bao nhiêu nẻo đường kháng chiến, cảm nhận về đất nước được mở ra theo chiều rộng không gian với bầu trời thu trong xanh, những núi rừng bát ngát của Việt Bắc, những cánh đồng lúa thơm mùi sữa, những dòng sông Lô, sông Thao, sòng Hồng cuồn cuộn phù sa).

Từ những cảm nhận về cái hữu hình của đất nước với không gian, bầu trời, cánh đồng, dòng sông, câu thơ đang náo nức, dồn dập reo vui bỗng như trầm lắng hẳn xuống, đượm vẻ thiêng liêng thành kính khi nghĩ về cái vô hình là hồn thiêng đất nước trên chiều dài của thời gian 4000 năm lịch sử:
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
“Nước chúng ta”, câu thơ có ba chữ mà như nổi bật lên giũa bài thơ giống như dòng nước đang cuộn chảy bỗng chững lại, dồn nén lại. Câu thơ bình dị mà chất chứa bao nhiêu cảm xúc yêu thương và tự hào.

Nghĩ về quá khứ của đất nước chúng ta, điều làm tác giả cảm phục nhất là truyền thống bất khuất kiên cường. Truyền thống ấy nổi bật lên tạo thành gương mặt rạng rỡ nhất của lịch sử cha ông “Nước những người chưa bao giờ khuất”. Câu thơ giản dị như một lời nói thường nhưng đã làm sống dậy trước mắt ta cả một quá khứ oanh liệt của tổ tiên. Ta như thấy trong đó tư thế của Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... luôn luôn hiên ngang bất khuất trước mọi đợt sóng ngoại xâm hung tàn: Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh.

Sức mạnh anh hùng bao đời của dân tộc đối với hiện tại là một sự thực lớn lao hùng hồn. Nhưng ở đây đã được nhà thơ diễn tả thông qua việc sáng tạo ra một hình tượng âm thanh như không thật, một âm thanh của tâm tưởng hơn là của thính giác: âm thanh rì rầm đêm đêm trong lòng đất vọng từ nghìn xưa vọng tới mai sau. “Rì rầm” là một từ láy tượng thanh rất gợi cảm. Nó không ồn ào vang động, vang xa nhưng liên tục đều đặn như dòng suối chảy bất tận. “Rì rầm” trong lòng đất “đêm đêm” còn gợi lên không khí thầm lặng thiêng liêng. “Đất” là hình ảnh tượng trưng cho đất nước, của sự khổng lồ, vĩnh hằng. “Đất” cũng là cái được dựng lên từ mồ hôi nước mắt, kể cả xương máu của biết bao thế hệ cha ông. Với hình ảnh thơ độc đáo này, tác giả đã hình tượng hoá được truyền thống anh hùng của đất nước thành một hình ảnh đầy sức sống, thiêng liêng và vững bền muôn thuở, trở thành nhịp đập của con tim lịch sử Việt Nam bất khuất anh hùng:
Tim Việt Nam có Bạch Đằng ca hát
Có đường gươm “sát thát” chém Toa Đô
Có Nguyễn Trãi trong hồn thơ ý nhạc
Sang sảng ngân trong “Đại cáo bình Ngô”
Đúng là một hình ảnh thơ đầy sáng tạo, vừa mang yếu tố cảm xúc cụ thể vừa có ý nghĩa tượng trưng khái quát sâu xa “Những buổi ngày xưa vọng nói về”. Nhờ sự kết hợp khéo léo giữa các từ “những... xưa... vọng... về”, câu thơ của Nguyễn Đình Thi cũng đã diễn tả được tính chất liên tục truyền thống bất khuất kiên cường của dân tộc. Cả quá khứ sâu thẳm của lịch sử đất nước dường như cũng đều có mặt với con cháu hôm nay, luôn luôn nhắn gửi về những lời thiêng liêng tha thiết. Đúng như Lê Anh Xuân đã từng viết:
Nghe như tiếng của cha ông thuở trước
Truyền con cháu hãy ngẩng cao đầu mà bước
Nghe như lời cây cỏ gió mưa
Hãy viết tiếp bài ca bất khuất ngày xưa
Bằng những câu thơ giàu tính chất suy tư và cảm xúc, bằng những hình ảnh nhân hoá vừa cụ thể vừa tượng trưng, đoạn thơ trên không chỉ thể hiện được niềm vui, niềm tự hào về Tổ quốc giàu đẹp và ý thức độc lập tự chủ mà còn bày tỏ được niềm biết ơn thành kính với tổ tiên. Vì hơn ai hết, nhà thơ đã ý thức được những chiến công vẻ vang hôm nay là kết quả của sức mạnh tổng hợp giữa quá khứ oanh liệt của cha ông với cuộc đấu tranh anh hùng của nhân dân ta:
Thời đại lớn cho ta đôi cánh
Không gì quý hơn độc lập tự do.
Bốn mươi thế kỉ cùng ra trận
Có Đảng ta đây, có Bác Hồ
(Tố Hữu)

(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương - Việt Trì - Phú Thọ)

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Nguyễn Đình Thi » Đất nước » Bình giảng khổ thơ 2,3,4 trong bài thơ Đất nước