22/12/2024 10:26Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Nhớ mong - Bản dịch của Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích

Bi cụ (Đặng Trần Côn)

Đăng bởi Vanachi vào 19/02/2006 16:52

 

65. Chàng từ đi vào nơi gió cát,
Đêm trăng này nghỉ mắt phương nao?
Xưa nay chiến địa dường bao,
Nội không muôn dặm xiết sao dãi dầu.
Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn,
70. Dòng nước sâu ngựa nản chân bon.
Ôm yên gối trống đã chồn.
Nằm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh.
Nay Hán xuống Bạch Thành[1] đóng lại,
Mai Hồ vào Thanh Hải[2] dòm qua.
75. Hình khe thế núi gần xa,
Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao.
Sương đầu núi buổi chiều như gội,
Nước lòng khe nẻo lội còn sâu.
Não người áo giáp bấy lâu,
80. Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây.
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ,
Mặt chinh phu ai vẽ cho nên?
Tưởng chàng rong ruổi mấy niên,
Chẳng nơi hãn hải[3] thì miền Tiêu Quan[4].
85. Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ sương phong.
Lên cao trông thức mây lồng[5],
Lòng nào là chẳng động lòng bi thương?
Chàng từ chốn đông nam khơi nẻo,
90. Biết nay chàng tiến thảo[6] nơi đâu.
Những người chinh chiến bấy lâu,
Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây.
Nức hơi mạnh ân dày từ trước,
Trải chốn nghèo tuổi được bao nhiêu.
95. Non Kỳ[7] quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì[8] gió thổi đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy người,
100. Nào ai mạc mặt[9] nào ai gọi hồn?
Dấu binh lửa nước non như cũ,
Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương.
Phận trai già ruổi chiến trường,
Chàng Siêu[10] tóc đã điểm sương mới về.
105. Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ,
Ba thước gươm một cỗ nhung yên.
Xông pha gió bãi trăng ngàn,
Tên reo[11] đầu ngựa giáo dan[12] mặt thành.
Áng công danh trăm đường rộn rã,
110. Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi.
[1] Thành Bạch Đăng. Vua Hán Cao Tổ từng bị vây ở đấy.
[2] Tên đất. Đời Đường, rợ Thổ Cốc Hồn hùng cứ ở đấy.
[3] Bãi sa mạc.
[4] Tên cửa ải ở nơi hiểm trở. Các đời Đường, Tống xây luỹ đắp đồn chống rợ Thổ Phồn.
[5] Điển tích: Đời Đường, Địch Nhân Kiệt đi đánh giặc xa nhà, lên núi cao trông đám mây trắng ở xa xa, nói với quân sĩ rằng “Cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng ấy”, ý nói nhớ nhà.
[6] (Tiến: đi tới; thảo: đánh dẹp giặc cướp).
[7] Kỳ Sơn, núi Kỳ Liên, đời Hán, Hoắc Khứ Bệnh đánh rợ Hung Nô ở đây. Có bản chép câu này là: “Non Kỳ mộ chỉ trăng theo”.
[8] Phì Thuỷ, tên sông. Bồ Kiên nước Tần, đem hàng trăm vạn quân đánh Tấn ở sông này, thua trận, quân sĩ mười phần chết mất tám chín, thây đắp thành gò.
[9] Vẽ ra nét mặt. (Dịch chữ “đan thanh” (đan: sắc đỏ; thanh: sắc xanh).
[10] Tức Ban Siêu, danh tướng đời Hán, theo việc binh nhưng ra xứ Tây Vực ở 31 năm, lập nhiều công lớn, khi về đã quá 80 tuổi.
[11] Từ chữ “minh đích” (minh: kêu; đích: mũi tên bịt sắt): tên nỏ bịt sắt, bắn đi vang ra tiếng.
[12] Từ chữ “duyên can” (duyên: leo; can: cán cây giáo): leo ngọn giáo mà lên mặt thành (duyên - doan).

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Đoàn Thị Điểm » Thơ dịch tác giả khác » Bi cụ