Nguyễn Thanh Tùng (Trường ĐH Sư phạm Hà Nội)
(1) Hồng Phi - Hương Nao, “Bài thơ chữ Hán ‘Nhìn thấy linh cữu Quang Trung’ mới tìm thấy”, Tạp chí
Xưa & nay (Hội Sử học Việt Nam), số 245, tháng 10/2005; Phan Duy Kha, “Loé lên tia hi vọng tìm thấy vị trí Đan Lăng”, báo
An ninh thế giới, số 519, ra ngày 7/01/2006; Hồng Phi - Hương Nao, “Lê Bật Triệu và việc xác định vị trí đặt lăng vua Quang Trung?”, Báo
Thanh Hoá online, ngày 03/06/2006: URL:
http://www.baothanhhoa.vn/vn/print/?n=7984; v.v…
(2) Theo Ngô Đức Thọ, Lê Ôn Phủ “đậu Cử nhân đời Cảnh Hưng, dạy học lâu năm rất có danh vọng ở tỉnh Thanh. Vua Gia Long lên ngôi có chiếu chỉ mời danh sĩ các nơi về kinh có ý muốn bổ dụng, trong đó có Lê Ôn Phủ. Cụ có vào kinh yết kiến vua, nhưng cáo lão không nhận chức. Trong chuyến đi ấy cụ sáng tác hơn trăm bài thơ, đặt tên là
Nam hành tạp vịnh 南行杂咏, đến đời Tự Đức con cháu và học trò biên tập đưa chung vào Liên Khê di tập” [“Lời nói đầu” trong: Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thuý Nga, Vũ Lan Anh, Nguyễn Đức Toàn, [i]Thư mục sách Hán Nôm ở Thư viện Quốc gia, Hà Nội[/i], Bộ Văn hoá thông tin - Thư viện Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.5].
(3) Xem tường thuật về buổi toạ đàm “Hướng đi tìm lăng mộ Hoàng đế Quang Trung” của Hội Khoa học Lịch sử Huế tổ chức ngày 8 tháng 02 năm 2006 tại Huế với sự tham gia của Hồng Phi - Hương Nao, Trần Đại Vinh, Trần Viết Điền, Đỗ Bang, v.v… qua các bài viết của: Bùi Ngọc Long, “Hé mở hướng đi tìm lăng mộ vua Quang Trung”, URL:
http://vietbao.vn/Van-hoa...uang-Trung/45183849/181/; Lương Mỹ Hà (ghi), “Đi tìm mộ Vua Quang Trung: Lăng mộ Vua Quang Trung ở núi Khuân Sơn?” URL:
http://baoxuan.giadinh.ne...rung-o-nui-khuan-son.htm; v.v...
(4) Bản chụp văn bản do NCS Phạm Văn Tuấn (Thiền Phong) ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm cung cấp. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn anh! Nhân đây cũng xin chân thành cảm ơn NCS Phạm Văn Tuấn, NCS Phạm Văn Ánh và TS Nguyễn Tô Lan đã đọc bản thảo và góp cho nhiều ý kiến có giá trị.
(5) Theo Ngô Đức Thọ, “Tập thơ của Liên Khê 莲溪 tự Ôn Phủ 温甫 tên thật là Lê Bật Trực 黎弼直 người xã Đại Trung huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá, đậu Hương cống khoa Cảnh Hưng thứ 26 (1765). Ông là bạn thân của nhiều danh sĩ đương thời, nổi tiếng là người giỏi thơ văn, xuất khẩu thành chương. Đầu sách có bài Tựa của Lê Quang 黎光, cháu họ tác giả viết… Sau Tựa có đề “Quyển chi nhất” 卷之壹 (1-41a), nhưng các phần sau không thấy ghi số quyển tiếp theo. Vào sách có các bài như:
Tặng Đỗ thiêm hộ 赠杜签户;
Tiễn Binh bộ quan khâm mệnh hồi triều 饯兵步官钦命回朝;
Tiễn Tổng trấn quan 饯总镇官;
Tặng Bắc Thành tham viện Chấn Thanh hầu 赠北城参院震清侯;
Tặng Sử quán biên tu Trần công 赠史馆编修陈公;
Tặng Đông Sơn Phủ Lý Trần công trúng Tiến sĩ (Trần công, xác định: Trần Lê Hiệu 陈黎校) 赠东山甫里陈公中进士;
Tặng Kính Giang bá thăng thụ Nghệ An tham hiệp 赠镜江伯升授刈安参协, v.v…Trong các thơ tiễn tặng như đã kê có tên các danh sĩ đầu triều Nguyễn (Tổng trấn Bắc thành, Bắc thành tham viện Chấn Thanh hầu, Tiến sĩ Biên tu sử quán Trần Lê Hiệu, v.v…) và nhiều thơ khác tặng Ninh Bình trấn Tham hiệp, tặng Tri huyện Hương Sơn, Tri phủ Đức Thọ, tri huyện bản huyện (tức huyện Hoàng Hoá), tặng Hoan Châu danh sĩ Đinh Bạt Nhự v.v… Từ tờ 41b là
Liên Khê nam hành tạp vịnh 莲溪南行杂咏. Đầu phần
Nam hành tạp vịnh này có bài tựa ngắn của tác giả, phần nhiều có làm thơ ghi lại để ghi nhớ các nơi đã đi qua:
Đề Eo Ống lộ,
Quá Tiên Lý Bùi thị cố trạch,
Quá Lục Niên sơn cảm tác,
Quá Tiên Sơn từ,
Quá Kinh Dương Vương từ,
Quá An Toàn ký Hàn Khê Bùi công xướng nghĩa sự,
Quá Lưỡng Trạng nguyên từ,
Vọng Thiên Cầm sơn hoài cổ,
Quá Nhĩ Luân nhàn diểu,
Quá Tam Đồn hoài cổ,
Quá Linh Giang tức sự,
Quá Trấn Thủ luỹ hoài cổ, v.v… Tiếp sau còn có các bài
Hoá Châu trường sa sơn kí,
Hoá Châu bạch sa sơn kí, viết về Cồn cát dài và Cồn cát trắng ven biển Quảng Bình, Quảng Trị. Đến tờ 62 có lẽ đã hết tập
Nam hành, tờ 63 là bài nói về vị trí chuyển dịch xưa nay của Cửa Hội triều ở Thanh Hoá.” [Ngô Đức Thọ,… [i]Thư mục sách Hán Nôm…[/i], sđd, tr.220].
(6) Nguyên văn: 猶金匱。國家藏書之柜。晉陆雲移太常府荐張贍:抽靈匱於秘宮,披金縢於玄夏 La Trúc Phong (chủ biên),
Hán ngữ đại từ điển, tập 11, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Thượng Hải, 1997, trang 876.
(7) Nguyên văn: 金匱亦作『金柜』。亦作『金鐀』。﹝1﹞铜制的柜。古时用以收藏文献或文物。汉贾谊《新书·胎教》:『胎教之道,书之玉版,藏之金柜,置之宗庙,以为后世戒。』《汉书·晁错传》:『陛下之德厚而得贤佐,皆有司之所览,刻於玉版,藏於金匱,歷之春秋,纪之后世,为帝者祖宗』晋王隐《晋书·瑞异记》:『甘卓家金匱鸣,声似槌镜,清而悲。』清龚自珍《己亥杂诗》之十二:『他年金鐀如搜采,来叩空山夜雨门。』孙犁《<秀露集>后记》:『金柜之藏,不必永存;流落村野,不必永失。』。﹝2﹞引申谓传之久远。《汉书·外戚传下·孝成赵皇后》:『愚臣既不能深援安危,定金匱之计;又不知推演圣德,述先帝之志。』颜师古注:『金匱,言长久之法可藏於金匱石室者也。』﹝3﹞借指藏书。章炳麟《訄书·序种姓下》:『李善长、宋濂、王袆并起自蒿莱,不覩金匮,古学废秏,而姓氏失其律度,兹无谪焉。』﹝4﹞比喻博学。清李斗《扬州画舫录·草河录上》:『先生以金匮之才,历石渠之选。』﹝5﹞相士术语。谓富贵之相。唐马总《意林·物理论》:『三亭九侯,定于一尺之面;愚智勇怯,形于一寸之目;天仓、金匮以别贫富贵贱。﹝6﹞方言。金匮原指十分珍贵的柜子,这里名词作动词或形容词试用。在中原地区(尤其在皖西)金匮泛指珍爱、溺爱,偏贬义。Theo:
http://www.zdic.net/cd/ci...cE9Zdic87Zdic91262009.htm(8) Xem cuộc tranh luận giữa Phan Duy Kha và Hồng Phi - Hương Nao, Phan Duy Kha, “Lê Bật Triệu đã nhìn thấy thi hài Quang Trung?”, Báo
An ninh thế giới, URL:
http://ca.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=75768 post ngày: Thứ ba, 16/05/2006; Hồng Phi - Hương Nao, “Có phải Lê Bật Triệu đã chứng kiến cảnh khai quật thi hài vua Quang Trung?” Báo
An ninh thế giới, số 528, ra ngày 18/2/2006.
(9) Tư Mã Thiên (thế kỉ I trước CN),
Sử kí, Phan Ngọc dịch, NXB Văn học tái bản, Hà Nội, 2008, tr.81; Xin thảm khảo thêm nguyên bản chữ Hán: 九月,葬始皇酈山。始皇初即位,穿治酈山,及並天下,天下徒送詣七十餘萬人,穿三泉,下銅而致槨,宮觀百官奇器怪徙藏滿之。令匠作機弩矢,有所穿近者輒射之。以水銀為百川江河大海,機相灌輸,上具天文,下具地理。以人魚膏為燭,度不滅者久之﹞[史記·秦始皇本紀]
(10) Nguyên văn chữ Hán: 旧五代史·汉书·苏逢吉传:『史弘肇怨逢吉異己,逢吉謀求出鎭以避之,既而中辍。人问其故,逢吉曰:‘苟捨此而去,史公一处分,吾齑粉矣』 [Thư Tân Thành 舒新城,… biên soạn, Từ Hải hợp đính bản 辭海合订本,Trung Hoa thư cục, Thượng Hải, 1947, tr.571].
(11) Nguyên văn chữ Hán: 明史,李善长传:『当元之季,欲为此者何限,莫不身为齑粉,覆宗绝祀,能保首领者几何人哉』 Theo
http://www.zdic.net/cd/ci...cE9ZdicBDZdic91344830.htm(11) Quốc sử quán triều Nguyễn (thế kỉ XIX),
Đại Nam thực lục, Tổ phiên dịch Viện sử học dịch, tập 1, NXB Giáo dục tái bản lần 1, Hà Nội, 2001, tr.531.