17/12/2024 17:53Thi Viện - Kho tàng thi ca Việt Nam và thế giới

Bốn mươi vần tỏ nỗi lòng tại Quỳ phủ - Bản dịch của Phạm Doanh

Quỳ phủ thư hoài tứ thập vận (Đỗ Phủ)

Đăng bởi tôn tiền tử vào 24/04/2015 22:42

 

Xưa chức uý Hà Tây từ bỏ,
Khi phục hưng, vùng Kế làm thày.
Công danh muộn vì bất tài,
Chức tỉnh lang dám mở lời than van.
Chốn Không Đồng đứng bên giúp chúa,
Nay thì vùng Diễm Dự sống nhàn.
Bèo trôi cứ bị cuốn tràn,
Cái thân gỗ tạp mà còn hưởng ân.
Nơi đài Vân đã ngăn chỗ đứng,
Thơ Trạm lộ thừa hứng vẫn ngâm.
Hào hoa thôi tít mù tăm,
Mà nay đầu bạc thương tâm như vầy.
Chốn suối rừng sa lầy vì lú,
Sống gặp khi bài phú chẳng ưa.
Tương Như rồi cũng tù mù,
Tiếng tăm tự nó lu mờ thế thôi.
Vua quan lánh vì đời bệnh tật,
Cảm thấy buồn được ít ân ban.
Vẫn ngại vua bị lầm than,
Gươm thiêng tuy tuổi gần tàn, vẫn vung.
Đất nước chính là vòng xoay sở,
Công danh kia ấy chỗ hẹn hò.
Trước mắt máu đổ chan hoà,
Mà hai bên má đầm đìa biết sao.
Khắp sông ngòi thuyền lầu lướt sóng,
Nơi trung nguyên ốc, trống buồn vang
Hào ngăn giặc tới biên cương,
Ngói tan rơi tới bên tường hoàng cung.
Mồ vua trước một vùng tôn kính,
Các quan răm rắp lệnh vua truyền.
Quân chủ lực nơi Hằng sơn,
Nơi Liêu Hải đó cờ còn bay tung.
Người làm ruộng than dùng keo dính,
Kẻ sống thì cố tránh tật thương.
Tư lệnh thế trận chủ trương,
Tướng bị bãi cố tìm đường đậy che.
Cống Sở, lệ nào khi bị bỏ,
Phong Nghiêu tục xưa cũ đáng ngờ.
Giặc phía bắc khuyên ra hồi chánh,
Cầu tây di nên tránh đi thôi.
Huyền phố chẳng cần phải đòi,
Thản nhiên ngồi đợi ở nơi Cụ Tì.
Đúc nông cụ bỏ đi binh khí,
Giảng điện thêm sách vở cho hay.
Quốc sách khó mà trình bày,
Lo trời chính tại cái này mà thôi.
Thương cho cái hình hài nhếch nhác,
Hãy ra công gánh vác việc đời.
Sứ giả theo lệnh vua rồi,
Các ông phép tắc rạch ròi đã ghi.
Chỉ ngại nỗi thuế thu quá mức,
Chẳng giống như săn sóc vết thương.
Nơi nơi đều phải cấp cung,
Nơi thành vắng vẻ lòng nung oán thù.
Dân nổi dậy chớ cho là nhỏ,
Mộng mây kia thật khó mà theo.
Việc này cảnh giác đề cao,
Nhân dân biết rõ nơi nào là sai.
Nơi nghị trường tranh tài chim phượng,
Nét nứt đầu nên ngóng mà theo.
Nơi nơi truyền hịch hò reo,
Nhà nhà vội vã mang đeo dùi dài.
Dẹp loạn dùng xe Tiêu chẳng được,
Sứ còn sang đất Thục làm gì.
Đi câu là giữ lễ nghi,
Cấy cày bên núi đợi đi thế cờ.
Đất nung nóng, có dư quạt hỏng
Mùa đông có áo mỏng ấm thân.
Beo doạ mà vẫn trèo lên,
Trọng Ni khóc nức nghe lân gặp nàn.
Mang mũ áo bán nhầm sang Việt,
Về sông Tuy, nghệ thuật chuốt trau.
Ngắm cây quế trong trăng thu,
Ánh chiều sương rớt cành quỳ lắt lay.
Rồi dân chúng cũng quay về gốc,
Chiến công xây với xác kẻ thù.
Gối cao nằm cứ gật gù,
Ca buồn nào có ai hò hát theo.
Cung nam nghiệp lớn dù nêu,
Nhưng mà hoà giải đến điều vẫn hơn.

In từ trang: https://www.thivien.net/ » Phạm Doanh » Thơ dịch tác giả khác » Quỳ phủ thư hoài tứ thập vận